
Đánh giá kết quả của phương pháp sóng xung kích trong điều trị bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính trong 6 tháng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang có đối chiếu và so sánh, theo dõi trong 6 tháng trên 65 bệnh nhân có bệnh thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng theo tiêu chuẩn ESC 2013 điều trị nội trú tại Khoa Nội Tim mạch- Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 3/2015 đến tháng 3/2021. Theo dõi đau ngực, khả năng gắng sức, tình trạng khó thở, siêu âm tim, xạ hình tưới máu cơ tim sau 6 tháng điều trị. Kết quả: Các triệu chứng đau ngực cải thiện rõ rệt (số cơn đau ngực 6,26 ± 2,59 xuống 0,58 ± 0,56 cơn; lượng nitrat dùng/tuần từ 6,34 ± 2,62 xuống 0,60 ± 0,55 lần/tuần). Test đi bộ 6 phút đều cải thiện (280,8 ± 71,1m so với 388,6 ± 44,4m). Tỷ lệ phân loại mức độ đau ngực cải thiện 6 tháng lần lượt: CCS 3 (59,46% xuống 0%), CCS 4 (16,92% xuống 0%). Ở nhóm có suy tim theo phân độ NYHA cải thiện (NYHA III từ 13,85% xuống 1,54%, NYHA IV không còn trường hợp nào. NT-proBNP giảm (942,75 ± 1618,37 xuống với 410,45 ± 451,54pg/ml). Phân suất tống máu EF Simpsons sau điều trị (48,48 ± 10,57%) cao hơn trước điều trị (43,89 ± 12,27%). WMSI sau điều trị (1,28 ± 0,15) cải thiện hơn so với trước điều trị (1,54 ± 0,18). GLS cải thiện từ -10,28 ± 2,82 lên -12,48 ± 2,67. Sau điều trị các điểm trung bình của SSS (17,45 ± 8,61 so với 12,18 ± 7,89); SRS (11,09 ± 7,74 so với 9,46 ± 7,23), SDS (4,37 ± 2,31 so với 2,57 ± 1,56) đều cải thiện hơn so với trước điều trị với p<0,05. Mức độ khuyết xạ nặng và diện khuyết xạ rộng giảm có ý nghĩa sau điều trị lần lượt là 46,2% xuống 12,3% và 60% xuống 26,2% với p<0,001). Kết luận: Điều trị thiếu máu cơ tim cục bộ mạn tính có đau thắt ngực dai dẳng bằng sóng xung kích có hiệu quả rõ rệt.
To evaluate of the results of cardiac shock waves therapy for 6 months in treatment ischemic heart disease. Subject and method: A prospective, cross-sectional study with comparison and follow-up for 6 months on 65 ischemic heart disease patients with refractive angina pectoris according to criteria of ESC 2013 managed at Internal Cardiology Department of the 108 Military Central Hospital from March 2015 to March 2021. The following parameters will be evaluated including symptoms of angina and the exercise tolerance, breathlessness, echocardiography and myocardial perfusion imaging after 6 months. Result: The symptoms of angina improved signif icantly (amount of chest pain 6.26 ± 2.59 to 0.58 ± 0.56 times; using of nitroglycerin reduced per week from 6.34 ± 2.62 to 0.6 ± 0.55 times/week). The 6-minute walking test all improved (280.8 ± 71.1m compared with 388.6 ± 44.4m). CCS angina class improved significantly CCS 3 (59.46% to 0%), CCS 4 (16.92% to 0%). In the group with heart failure, NYHA grade improved significantly (NYHA III from 13.85% to 1.54%, NYHA IV was no more cases). NT-proBNP decreased (942.75 ± 1618.37 to 410.45 ± 461.54pg/ml). EF Simpson's after treatment (48.48 ± 10.57%) was higher than before treatment (43.89 ± 12.27%). Wall motion septal index (WSMI) decreased from 1.54 ± 0.18 to 1.28 ± 0.15). GLS improved from -10.28 ± 2.82 to -12.48 ± 2.67. After treatment average score of SSS (17.45 ± 8.61 versus 12.18 ± 7.89); SRS (11.09 ± 7.74 versus 9.46 ± 7.23), SDS (4.37 ± 2.31 versus 2.57 ± 1.56), markedly improved with p<0.05. The degree of severe perfusion defect and the wide perfusion defect area decreased significantly after treatment by 46.2% to 12.3% and 60% to 26.2%, respectively. There was no rise of cardiac enzymes and complicated arrhythmias were not observed during the study period. Conclusion: The treatment of ischemic heart disease by cardiac shock wave therapy has obvious efficacy.
- Đăng nhập để gửi ý kiến