
Phẫu thuật điều trị bệnh lý động mạch cảnh đã được ứng dụng từ rất lâu. Phẫu thuật động mạch cảnh nên là lựa chọn đầu tiên trên bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật thấp với nhóm có triệu chứng kèm hẹp 50 – 99%, nhóm không triệu chứng kèm hẹp từ 70 – 99% mẫu nghiên cứu [7]. Có hai phương pháp phẫu thuật gồm bóc nội mạc lộn ngược và vá miếng mạch máu nhân tạo. Theo nghiên cứu Cao P và cộng sự (2000), với cỡ mẫu 1353 trường hợp, so sánh giữa hai phương pháp phẫu thuật bóc nội mạc lộn ngược và phẫu thuật vá miếng vá mạch máu nhân tạo thì không thấy có sự khác biệt về lâu dài khi theo dõi. Tuy nhiên, tỉ lệ tử vong ở giai đoạn theo dõi của phẫu thuật bóc nội mạc lộn ngược thì thấp hơn phẫu thuật vá miếng vá mạch máu nhân tạo, lần lượt chiếm 8.1% và 9.3% mẫu nghiên cứu [6]. Tại bệnh viện Chợ Rẫy chưa có nhiều nghiên cứu về đánh giá kết quả lưu thông mạch máu cảnh lâu dài sau khi phẫu thuật bóc lộn ngược nội mạch động mạch cảnh. Đó chính là lý do mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu này. Phương pháp: Hồi cứu mô tả loạt ca. Kết quả: Nghiên cứu có tuổi trung bình 75,4 ± 18,2, nam giới chiếm đa số. Yếu tố rối loạn chuyển hoá lipid và đái tháo đường chiếm tỉ lệ lần lượt 88,9 % và 70,8%. Hầu hết các trường hợp trong nghiên cứu là có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, chiếm 76,2%. Tổn thương động mạch dạng hẹp từ 70-90% đường kính lòng mạch là chủ yếu, chiếm 79,8 % mẫu nghiên cứu. Phương pháp gây tê tại chỗ chiếm 57,2%. Hầu hết là không dùng shunt trong quá trình phẫu thuật. Phẫu thuật bóc động mạch cảnh chung phối hợp cảnh trong chiếm tỉ lệ cao, chiếm 89,5%. Thời gian kẹp động mạch cảnh khoảng 18,5 phút và thời gian phẫu thuật trung bình khoảng 54 phút. Tỉ lệ thành công về kỹ thuật đạt 97,9%, tỉ lệ tử vong trong 30 ngày chiếm 2,7%. Ở giai đoạn theo dõi, tỉ lệ lưu thông mạch máu thì đầu chiếm 85,1% mẫu nghiên cứu. Kết luận: Phẫu thuật bóc nội mạc lôn ngược động mạch cảnh có tỉ lệ thành công về kỹ thuật cao, ít biến chứng và tỉ lệ lưu thông mạch máu thì đầu cao ở giai đoạn theo dõi. Do đó, phương pháp này đem lại hiệu quả, an toàn và ít biến chứng.
Surgery for carotid artery disease has been applied for a long time. Carotid artery surgery should be the first choice in patients with low surgical risk, with the group having symptoms with stenosis of 50 - 99% and the group without symptoms with stenosis from 70 - 99% of the research sample [7]. There are two surgical methods, including eversion endarterectomy and artificial vascular patch. According to the study of Cao P et al. (2000), with a sample size of 1353 cases, comparing the two surgical methods of inverted endarterectomy and artificial vascular patch surgery, there was no difference in long-term follow-up. However, the mortality rate in the follow-up period of inverted endarterectomy was lower than that of artificial vascular patch surgery, accounting for 8.1% and 9.3% of the research sample, respectively [6]. At Cho Ray Hospital, many studies have not evaluated the long-term results of carotid blood circulation after endovascular carotid artery dissection. That is the reason why we conducted this study. Methods: Retrospective description of case series. Results: The study had an average age of 75.4 ± 18.2, with the majority being male. Lipid metabolism disorders and diabetes accounted for 88.9% and 70.8%, respectively. Most of the cases in the study were symptomatic, accounting for 76.2%. Carotid Arterial lesions with 70-90% stenosis of the lumen diameter were the main ones, accounting for 79.8% of the study sample. Local anesthesia accounted for 57.2%. Most did not use shunts during surgery. Common carotid and internal carotid artery combined everion endarterectomy accounted for a high proportion, accounting for 89.5%. The carotid artery clamping time was about 18.5 minutes, and the average surgical time was about 54 minutes. The technical success rate was 97.9%, the 30-day mortality rate was 2.7%. The primary patency rate accounted for 85.1% of the study sample during the follow-up period. Conclusion: Surgical treatment of infrarenal abdominal aortic aneurysm has a high technical success rate, few complications, and a high survival rate in the follow-up period. Therefore, this method is effective, safe, and has few complications.
- Đăng nhập để gửi ý kiến