Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư khoang miệng có tạo hình khuyết hổng bằng vạt mũi má

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư khoang miệng có tạo hình khuyết hổng bằng vạt mũi má
Tác giả
Trần Anh Bích; Ngô Thúc Luân
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
1-4
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Ung thư khoang miệng chiếm tỉ lệ 30% tổng số ung thư đầu cổ và 5% tổng số ung thư nói chung. Phẫu thuật cắt u phải đảm bảo lấy trọn u với diện cắt an toàn, hạn chế tái phát, nhưng để lại khuyết hổng lớn. Vạt mũi má được sử dụng rộng rãi trong việt tạo hình khuyết hổng, với nhiều ưu điểm: tỉ lệ vạt sống cao, linh hoạt. Mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuật ung thư khoang miệng có tạo hình khuyết hổng bằng vạt mũi má tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2020 đến 10/2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiến cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. Nghiên cứu 32 trường hợp phẫu thuật ung thư khoang miệng, sử dụng vạt mũi má trong tạo hình khuyết hổng trong thì đầu. Kết quả: ung thư vùng sàn miệng (10/32 trường hợp), lưỡi ± sàn miệng (21/32 trường hợp), lợi khẩu cái cứng (1/32 trường hợp). Kích thước vạt mũi má trung bình 2,7cm (2,5-2,9) x 5,8cm (5,5-6cm), có cuống động tĩnh mạch mặt. Bệnh nhân ăn qua đường miệng sau 5 ngày. Sau 6 tháng, không ghi nhận u tái phát, chức năng khoang miệng bình thường. Biến chứng: 7/32 trường hợp liệt nhánh thần kinh bờ hàm dưới độ III-IV, hồi phục sau 6 – 8 tháng, 5/32 trường hợp liệt mặt độ III và 2/32 trường hợp liệt mặt độ IV. Kết luận: vạt mũi má là một lựa chọn tốt để tái tạo khuyết hổng vừa sau cắt ung thư khoang miệng.

Abstract

Oral cancer accounts for 30% of total head and neck cancers and 5% of all cancers. Surgery for tumor removal must ensure complete excision with a safe margin to minimize recurrence, but it often leaves significant defects. The nasolabial flap is widely used for defect reconstruction, offering advantages such as a high flap survival rate and flexibility. Objective: To evaluate the surgical outcomes of oral cancer with defect reconstruction using the nasolabial flap at Otolaryngology Department – Cho Ray Hospital from January 2020 to october 2023. Subjects and Methods: A non-randomized clinical intervention study was conducted. The study involved 32 cases of oral cancer surgery using the nasolabial flap for defect reconstruction in the first phase. Results: The tumors were located in the floor of the mouth (10 cases), tongue ± the floor of the mouth (21 cases), and hard palate (1 case). The average size of the nasolabial flap was 2.7cm (2.5-2.9) x 5.8cm (5.5-6 cm) with a static venous pedicle. Patients resumed oral intake after 5 days. No tumor recurrence was observed after 6 months, and oral function returned to normal. Complications: paralysis of mandibular nerve grade III-IV (7 cases), which recovered after 6 – 8 months; facial paralysis grade III (5 cases) and grade IV (2 cases). Conclusion: The nasolabial flap is a good option for reconstructing moderate defects following oral cancer surgery.