
Đánh giá sự thay đổi một số chỉ số đông máu và các rối loạn đông máu trong phẫu thuật ghép gan. Bên cạnh đó, đánh giá mối tương quan giữa chỉ số đông máu cơ bản và các chỉ số của xét nghiệm ROTEM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả trên 34 BN nhận gan. BN được lấy máu xét nghiệm ĐMCB và Rotem tại 6 thời điểm: Sau khởi mê (To); kết thúc giai đoạn phẫu tích (T1); kết thúc giai đoạn vô gan (T2); sau tái tưới máu (5 phút sau khi thả kẹp miệng nối tĩnh mạch) (T3); giai đoạn gan mới (T4), và ngày đầu tiên sau gan ghép (T5). Trong mổ, BN được truyền máu và các chế phẩm máu theo phác đồ gợi ý truyền máu của bệnh viện Việt Đức. Các kết quả xét nghiệm được đối chiếu với với khoảng tham chiểu của labo xét nghiệm và được so sánh với thời điểm To. Các chỉ số xét nghiệm ĐMCB được phân tích tương quan với các chỉ số tương ứng trên ROTEM. Kết quả: Rối loạn đông máu dạng giảm đông rất thường gặp ở BN nhận gan, đặc biệt là ở giai đoạn tái tưới máu (APTT kéo dài gặp ở 76,5%, giảm fibrinogen gặp 79,4% và giảm tiểu cầu gặp ở 91.2% BN) và giai đoạn gan mới (PT kéo dài gặp ở 35.3%). Tuy nhiên, tình trạng đông máu có xu hướng trở về bình thường vào ngày đầu sau ghép. Có mối tương quan chặt giữa các chỉ số ĐMCB và chỉ số ROTEM: PT với CT- EXTEM (r: 0,394); aPTT với CT- INTEM (r: 0,61); Số lượng tiểu cầu với A10 – EXTEM (r: 0,819); nồng độ fibrinogen với MCF - EXTEM (r: 0,631). Kết luận: BN nhận gan thường gặp rối loạn giảm đông trong giai đoạn tái tưới máu và giai đoạn gan mới. Các xét nghiệm ROTEM có mối tương quan tốt với các chỉ số xét nghiệm ĐMCB, có thể giúp quyết định điều trị sớm hơn.
To evaluate the changes of some coagulation indexes and the coagulation disorders in liver transplant surgery as well as the correlation between the basic coagulation indexes and the ROTEM values. Methods: Descriptive study on 34 patients getting liver transplantation. The patient had coagulation blood test and ROTEM test at 6 time points: After induction stage of anesthesia (To); the end of the dissection phase (T1); the end of the anhepatic (no liver) phase (T2); after reperfusion (5 min after release of the venous anastomosis) (T3); new liver phase (T4), and the first day of postimplantation (T5). During surgery, the patient received blood products transfusion according to the protocol of Viet Duc hospital. The test results are compared with the reference range of the test laboratory and compared with the To point index. The basic coagulation indexes was analyzed and correlated with the corresponding index on ROTEM test. Results: Hypocoagulation was very common in liver recipients, especially in the reperfusion phase (prolonged APTT in 76.5%, fibrinogen reduction in 79.4% and thrombocytopenia in 76.5%. in 91.2% of patients) and new liver stage (prolonged PT was seen in 35.3%). However, the coagulation indexes tended to return to normal value on the first day after transplantation. There is a strong correlation between the basic coagulation indexes and the ROTEM indexes: PT with CT- EXTEM (r: 0.394); aPTT with CT- INTEM (r: 0.61); Platelet count with A10 – EXTEM (r: 0.819); fibrinogen concentration with MCF - EXTEM (r: 0.631). Conclusions: Patients receiving liver often experience hypocoagulation disorders during the reperfusion phase and the new liver phase. ROTEM values have a strong correlation with the basic coagulation indexes, which can help to make treatment decisions earlier.
- Đăng nhập để gửi ý kiến