Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá tình trạng bao sau thể thuỷ tinh trên bệnh nhân vết thương xuyên nhãn cầu bằng siêu âm bán phần trước tần số 35MHz

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá tình trạng bao sau thể thuỷ tinh trên bệnh nhân vết thương xuyên nhãn cầu bằng siêu âm bán phần trước tần số 35MHz
Tác giả
Trần Trung Kiên; Thẩm Trương Khánh Vân; Nguyễn Đức Doanh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
346-349
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Kiểm tra tính chính xác của siêu âm bán phần trước (UBM) tần số 35MHz dùng đánh giá tình trạng bao sau thể thuỷ tinh trên bệnh nhân vết thương xuyên nhãn cầu có tổn thương thể thuỷ tinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 49 mắt của 49 bệnh nhân chấn thương xuyên nhãn cầu có tổn thương thể thuỷ tinh đã khâu giác củng mạc sau chấn thương được điều trị tại khoa Chấn thương Bệnh viện Mắt TW bằng phẫu thuật lấy thể thuỷ tinh đục vỡ có hoặc không đặt thể thuỷ tinh nhân tạo. Nghiên cứu mô tả cắt ngang không có nhóm chứng từ tháng 4/2018 đến tháng 5/2019. Kết quả: Tỷ lên nam/nữ xấp xỉ 2,7/1. Độ tuổi trung bình 43,4±19,7 tuổi (từ 14 đến 63 tuổi). UBM phát hiện 28 mắt có tổn thương bao sau, tuy nhiên trong phẫu thuật chỉ phát hiện được 25 mắt có tổn thương thực thể. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị chẩn đoán dương tính, giá trị chẩn đoán âm tính lần lượt là 100%, 87,5%, 89,3% và 100%. Kết luận: Mặc dù có một số hạn chế trong chẩn đoán, UBM với tần số 35 MHz là phương pháp chẩn đoán hình ảnh chính xác dùng để đánh giá tình trạng bao sau thể thuỷ tinh trên bệnh nhân chấn thương xuyên nhãn cầu. Phương pháp này giúp chúng ta tiên lượng tình trạng bệnh nhân trước, trong và sau phẫu thuật tốt hơn.

Abstract

To evaluate the accuracy of 35 MHz ultrasound microbioscopy in diagnosis of damages of posterior lens capsule in cases of traumatic cataracts after ocular penetration. Subjects and research methods: Descriptive study without a control group on 49 cases with ocular penetration, which had been sutured and were treated by cataract surgeries with or without intraocular lens implantation at the Eye Trauma Department of Vietnam National Eye Hospital from 4/2018 to 5/2019. Results: The male/female ratio in the study was approximately 2,7/1. The mean age was 43,4±19,7 years old (the range was 14-63 years old). On UBM images, there were 28 cases diagnosed with posterior lens capsule tear, but during the operation, only 25 cases were having the damages. The sensitivity, specificity, positive predictive value and negative predictive value were 100%, 87,5%, 89,3% and 100%, respectively. Conclusion: Although there are some disadvantages of 35 MHz ultrasound microbioscopy, it is an effective method to evaluate the posterior lens capsule in traumatic cataracts after ocular penetration.