Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Giá trị của phương pháp chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch bẹn trong đánh giá giải phẫu và chẩn đoán rò ống ngực

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Giá trị của phương pháp chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch bẹn trong đánh giá giải phẫu và chẩn đoán rò ống ngực
Tác giả
Nguyễn Ngọc Cương; Trần Nguyễn Khánh Chi; Phạm Hồng Cảnh; Triệu Quốc Tính
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
76-80
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

So sánh giá trị của phương pháp chụp cộng hưởng từ (CHT) bạch mạch qua hạch bẹn trong xác định giải phẫu và chẩn đoán rò ống ngực so với chụp bạch mạch số hóa xóa nền (DSA). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu 42 bệnh nhân được chẩn đoán rò dịch dưỡng chấp (26 nữ, 16 nam; 35 bệnh nhân sau chấn thương, 7 bệnh nhân không do chấn thương) được chụp CHT và DSA đường bạch huyết qua hạch bẹn tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả: Vị trí tổn thương ống ngực thường gặp là đoạn cổ với 19/42 bệnh nhân (45%) và đoạn ngực với 16/42 bệnh nhân (38%). Về đánh giá giải phẫu: 50% bệnh nhân có giải phẫu ống ngực bình thường, 33,3% không có bể dưỡng chấp. Về đối chiếu giải phẫu giữa CHT và DSA: mức độ đồng thuận rất tốt với giải phẫu bình thường, ống ngực nằm hoàn toàn bên trái cột sống, không có bể dưỡng chấp, ống ngực đôi đoạn xa. Về khả năng phát hiện đường rò, CHT so với DSA có độ nhạy 92%, độ đặc hiệu 100%, giá trị dự đoán dương tính 100%, giá trị dự đoán âm tính 57%. Kết luận: Chụp cộng hưởng từ bạch mạch qua hạch bẹn hai bên là kỹ thuật đơn giản, ít xâm lấn, không nhiễm xạ, cung cấp thông tin đầy đủ về giải phẫu cũng như có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong phát hiện rò ống ngực.

Abstract

To compare the value of intranodal dynamic magnetic resonance lymphangiography (DMRL) with Digital subtraction lymphagiography (DSA) in identifying anatomy and diagnosing thoracic duct leakage. Materials and methods: 42 patients diagnosed with chylous leak (26 women, 16 men; 35 traumatic chylous, 7 nontraumatic chylous) underwent intranodal DMRL and DSA at Radiology center of Hanoi Medical University Hospital. Results: The most common locations of thoracic duct injury were the neck segment in 19/42 patients (45%) and the thoracic segment with 16/42 patients (38%). Anatomical evaluation revealed that 50% of patients had a normal thoracic duct anatomy, while 33.3% lacked a cisterna chyli. Comparing the anatomical assessment capabilities of DMRL and DSA showed a high level of agreement for normal anatomy, a completely left-sided thoracic duct, absence of cisterna chyli, and distal partial duplication of the thoracic duct. Regarding the ability to detect fistula, DMRL compared with DSA has a sensitivity of 92%, a specificity of 100%, a positive predictive value of 100%, a negative predictive value of 57%. Conclusion: Intranodal dynamic magnetic resonance lymphangiography is a minimally invasive, radiation-free technique that provides comprehensive anatomical information as well as high sensitivity and specificity in detecting thoracic duct leak.