Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hệ thống ống tủy chân răng nhóm răng hàm nhỏ thứ nhất trên ConeBeam CT

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hệ thống ống tủy chân răng nhóm răng hàm nhỏ thứ nhất trên ConeBeam CT
Tác giả
Phạm Thị Tuyết Nga; Lê Hoàng Anh; Nguyễn Vinh Quang; Trần Hậu Báu
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
74-78
ISSN
1859-1868
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Khảo sát hệ thống ống tủy chân răng nhóm răng hàm nhỏ thứ nhất ở người Việt Nam trên phim ConeBeam CT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 25 răng hàm nhỏ thứ nhất đã nhổ được thu thập tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Viện Đào tạo Răng hàm mặt Trường Đại Học Y Hà Nội (15 răng hàm nhỏ thứ nhất hàm trên và 10 răng hàm nhỏ thứ nhất hàm dưới), thời gian từ 8/2023 đến 5/2024. Phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu thực nghiệm không đối chứng, lựa chọn mẫu ngẫu nhiên theo tiêu chí cho đến khi đủ số lượng nghiên cứu. Kết quả: Xét về số lượng chân răng, tỷ lệ răng một chân ở nhóm răng hàm trên là 60%, lớn hơn răng hai chân (40%). Sự chênh lệch này thể hiện rõ hơn ở nhóm răng hàm dưới với 80% răng 1 chân và 20% răng có 2 chân. Xét về số lượng ống tuỷ, ở nhóm răng hàm trên chỉ có duy nhất 1 răng có một ống tuỷ (6,7%), còn lại đều là răng có hai ống tuỷ (93,3%). Tỷ lệ này là như nhau ở nhóm răng hàm dưới. Theo phân loại Vertucci 1984, hình thái ống tuỷ ở nhóm răng hàm trên phổ biến nhất là loại I (đối với các răng có một chân) và loại V (đối với các răng có hai chân) và phần lớn là loại I ở nhóm răng hàm dưới. Khi khảo sát trên phim CTCB, khoảng cách giữa 2 ống tủy của RHN thứ nhất hàm trên dao động từ 2,98 ± 0,18 đến 3,42±0,39 và khoảng dao động này là từ 2,45±0,37 đến 3,58 ± 0,24 ở RHN thứ nhất hàm dưới.

Abstract

To investigate the root canal system of the first premolars in Vietnamese individuals using ConeBeam CT scans. Subjects and Methods: The study was conducted on 25 extracted first premolars collected from Hanoi Medical University Hospital and the School of Dentistry, Hanoi Medical University (15 maxillary first premolars and 10 mandibular first premolars) between August 2023 and May 2024. Research method is an experimental study without control, random sample selection according to the criteria until the number of studies is sufficient. Results: Regarding the number of roots, the rate of single-rooted teeth in the maxillary first premolars group was 60%, higher than the double-rooted teeth (40%). In the mandibular first premolars group, 80% being single-rooted and 20% being double-rooted. In terms of the number of root canals, only one maxillary first premolar had a single root canal (6.7%), while the remaining teeth had two root canals (93.3%). This ratio was the same in the mandibular first premolars group. According to Vertucci's 1984 classification, the most common root canal morphology in maxillary first premolars was Type I (for single-rooted teeth) and Type V (for double-rooted teeth), and mostly Type I in mandibular first premolars. When examined on ConeBeam CT scans, the distance between the two root canals of the maxillary first premolar ranged from 2.98 ± 0.18 to 3.42 ± 0.39 mm, and this range was from 2.45 ± 0.37 to 3.58 ± 0.24 mm in the mandibular first premolars.