Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ tuổi sinh đẻ về sàng lọc trước sinh tại tuyến y tế cơ sở, tỉnh Bình Dương, 2019-2022

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ tuổi sinh đẻ về sàng lọc trước sinh tại tuyến y tế cơ sở, tỉnh Bình Dương, 2019-2022
Tác giả
Bùi Minh Hiền; Nguyễn Hồng Chương; Trần Văn Hưởng; Vũ Hải Hà; Lại Thị Minh; Trần Thị Quỳnh Như; Nguyễn Minh Đăng; Võ Thị Kim Anh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
150-155
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá hiệu quả can thiệp nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ tuổi sinh đẻ về sàng lọc trước sinh. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu can thiệp cộng đồng không đối chứng được tiến hành trên 455 phụ nữ tuổi tuổi sinh đẻ trước và sau can thiệp từ tháng 03/2019 đến tháng 12/2022 tại 91 trạm y tế xã, tỉnh Bình Dương. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ tuổi sinh đẻ có kiến thức đúng về sàng lọc trước sinh tăng từ 47,3% lên 73,8% (p < 0,05; CSHQ = 56,3%), thái độ tích cực về sàng lọc trước sinh tăng từ 63,2% lên 80,7% (p < 0,05; CSHQ = 27,4%), thực hành đúng về sàng lọc trước sinh tăng từ 38,2% lên 67,9% (p < 0,05; CSHQ = 77,6%). Kết luận: Mô hình can thiệp có hiệu quả trong việc nâng cao kiến thức, thái độ, thực hành của phụ nữ tuổi sinh đẻ về sàng lọc trước sinh. Truyền thông về sàng lọc trước sinh cần được thực hiện thường xuyên hơn và đa dạng hóa các hình thức.

Abstract

Evaluate the effectiveness of intervention to increase knowledge, attitude, and practice of women of reproductive age regarding prenatal screening. Methods: Non-controlled community intervention research design was conducted on 455 women of reproductive age before and after intervention from March 2019 to December 2022 at 91 commune health stations, Binh Duong province. Results: The proportion of women of reproductive age with correct knowledge about prenatal screening increased from 47.3% to 73.8% (p < 0.05; Efficiency Index (EFFi) = 56.3%), correct attitude about prenatal screening increased from 63.2% to 80.7% (p < 0.05; EFFi = 27.4%), correct practice of prenatal screening increased from 38.2% to 67.9% (p < 0, 05; EFFi = 77.6%). Conclusion: The intervention model is effective in improving knowledge, attitude, and practice of women of reproductive age regarding prenatal screening. Communication about prenatal screening needs to be done more frequently and in diverse forms.