
Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị của ung thư bàng quang nông (UTBQN) điều trị bổ trợ bằng Bacillus Calmette-Guérin (BCG) nội bàng quang tại bệnh viện K. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh. 82 bệnh nhân UTBQN mới chẩn đoán, được phẫu thuật nội soi cắt u bàng quang qua đường niệu đạo và bổ trợ bằng BCG nội bàng quang tại Bệnh viện K, thời gian từ tháng 04/2015 đến tháng 12/2020. Kết quả: 82 bệnh nhân ung thư bàng quang nông được đưa vào nghiên cứu, tuổi trung bình là 56,8± 13,7, dao động từ 23 đến 84, tỷ lệ nam/nữ là 6,45. Lí do vào viện thường gặp nhất là tiểu máu (76,8%). Trong nghiên cứu này, 72% bệnh nhân chỉ có 1 u đơn độc trong bàng quang, 12,1% bệnh nhân có u kích thước lớn nhất trên 3cm, u có cuống chiếm tỷ lệ 47,6%. Các bệnh nhân chủ yếu ở giai đoạn T1 với 56,1%. Nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao chiếm 43,9% và đều có độ mô học cao. Trong thời gian theo dõi trung bình là 48,2 tháng, có 14,6% bệnh nhân tái phát, được phẫu thuật nội soi cắt u qua đường niệu đạo. Có 4,9% bệnh nhân tiến triển xâm lấn lớp cơ, đã được phẫu thuật cắt bàng quang triệt căn. Tác dụng không mong muốn hay gặp nhất là tiểu buốt (31,7%), Tiểu máu (11%), tiểu rắt (7,3%), sốt cao (1,2%). Kết luận: Liệu pháp miễn dịch bổ trợ bằng BCG nội bàng quang có hiệu quả cao và an toàn trên bệnh nhân ung thư bàng quang nông đã phẫu thuật cắt u qua nội soi, giúp giảm tỉ lệ tái phát và tiến triển.
Describe some clinical and subclinical characteristics of patients and evaluate treatment outcomes of non-muscle invasive bladder cancer (NMIBC) treated with adjuvant intravesical BCG therapy at K Hospital. Patients and Research Method: A descriptive, case-cluster-study was conducted on 82 newly diagnosed NMIBC patients who underwent transurethral resection of bladder tumors (TURBT) and received adjuvant intravesical BCG therapy at K Hospital from April 2015 to December 2020. Results: A total of 82 NMIBC patients were included in the study, with a mean age of 56.8 ± 13.7, ranging from 23 to 84 years old. The male-to-female ratio was 6.45. The most common reason for hospital admission was hematuria (76.8%). In this study, 72% of patients had a single solitary tumor in the bladder, 12.1% had the largest tumor size over 3 cm, and 47.6% had tumors with a stalk. The majority of patients were in stage T1, accounting for 56.1%. The high-risk group accounted for 43.9% and had high histological grades. During a mean follow-up period of 48.2 months, tumor recurrence occurred in 14.6% of patients, requiring repeat TURBT. Disease progression to invasive stage occurred in 4.9% of patients, who then underwent radical cystectomy. The most common adverse events were dysuria (31.7%), hematuria (11%), urgency (7.3%), and high fever (1.2%). Conclusion: Adjuvant intravesical BCG immunotherapy is highly effective and safe in non-muscle-invasive bladder cancer patients who have undergone TURBT, reducing the rates of recurrence and progression.
- Đăng nhập để gửi ý kiến