Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả lâu dài của các bệnh nhân có biến chứng hẹp niệu quản thận ghép

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả lâu dài của các bệnh nhân có biến chứng hẹp niệu quản thận ghép
Tác giả
Lê Nguyên Vũ; Trần Minh Tuấn; Nguyễn Quang Nghĩa
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
10-14
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả của việc điều trị biến chứng hẹp niệu quản thận ghép. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hồi cứu 33 bênh nhận được chẩn đoán hẹp niệu quản thận ghép qua lâm sàng và chụp cắt lớp vi tính Các chỉ tiêu nghiên cứu: giới, nguồn thận ghép, thời gian hẹp niệu quản, can thiệp trước đó, phương pháp cắm niệu quản bàng quang, mổ mở lấy thận hay nội soi, thận bên phải/ trái, vị trí hẹp niệu quản, các nguyên nhân gây hẹp, phương pháp điều trị, kết quả điều trị sau 1 tháng, 3 tháng, 1 năm. Kết quả: tỷ lệ nam/ nữ 22/11. 93,93% thận lấy từ người cho sống và 6,07% thận ghép lấy từ người cho chết não. Lấy thận theo phương pháp mổ nội soi: 78.78%, mổ mở là 21.22%, thận hiến là thận phải gặp 69.69%. 100% các bệnh nhân bị hẹp đều có giãn niệu quản bể thận trên siêu ấm và creatinin máu cao hơn mức nền. Thời gian từ khi ghép thận đến khi hẹp niệu quản nhiều nhất là nhóm bệnh nhân sau ghép 1 tháng chiếm tỷ lệ 66.67%. Siêu âm niệu quản bể thận giãn lớn >2cm chiếm tỷ lệ 60.61%. Vị trí hẹp trên cắt lớp vi tính đoạn miệng nối niệu quản bàng quang là hay gặp nhất chiếm tỷ lệ 75.75%. Điều trị bằng phương pháp nong niệu quản bằng bóng thành công 2 trường hợp (6,07%). Các trường hợp còn lại sau khi nong bằng bóng phải mổ mở: 24.24% hoặc mổ mở luôn khi chẩn đoán hẹp 69.69%. cắm niệu quản thận ghép vào niệu quản cũ là kỹ thuật ưu tiên được lưa chọn chiếm tỷ lệ 87.1%, có 13% trường hợp phải khâu buộc thêm niệu quản thận ghép tránh nhiễm trùng ngược dòng. Kết quả chức năng thận trở về bình thường và không còn tình trạng nhiễm khuẩn Kết luận: Phẫu thuật mổ mở chỉ định cho những trường hợp hẹp dài hoặc đã điều trị bằng nội soi thất bại. Đặt stent niệu quản không phải lúc nào cũng khả thi về mặt kỹ thuật và kết quả điều trị.

Abstract

To evaluate the outcomes of treating complications of ureteral stricture after kidney transplantation. Patients and Research Methods: Retrospective description of 33 patients diagnosed with ureteral stricture after kidney transplantation through clinical assessment and computed tomography imaging. Study parameters: Gender, source of the transplanted kidney, duration of ureteral stricture, previous interventions, method of ureteral stent placement, open surgery or endoscopy, right/left kidney, location of the stricture, causes of stricture, treatment methods, treatment outcomes after 1 month, 3 months, and 1 year. Results: 22 males to 11 females. 93.93% of the kidneys were procured from living donors, while 6.07% were from deceased donors. Endoscopic surgery was used for kidney retrieval in 78.78% of cases, while open surgery accounted for 21.22%. The right kidney was donated in 69.69% of cases. All patients with strictures had dilated renal pelvis on ultrasound and higher blood creatinine levels than baseline. The majority (66.67%) developed ureteral stricture within 1 month post-transplantation. Dilatation of the renal pelvis > 2cm on ultrasound accounted for 60.61%. The most common site of stricture on CT imaging was at the ureter-bladder anastomosis, accounting for 75.75%. Balloon dilation of the ureteral stricture was successful in 6.07% of cases. The remaining cases underwent open surgery after failed balloon dilation (24.24%) or directly upon diagnosis (69.69%). Placing the transplant ureteral stent into the native ureter was the preferred technique in 87.1% of cases, with 13% requiring additional suturing to prevent retrograde infection. Normal renal function and resolution of infection were achieved in all cases. Conclusion: Open surgery is indicated for long or failed endoscopic treatment of strictures. Placement of ureteral stents may not always be technically feasible or effective.