Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả phẫu thuật ung thư vú không sờ thấy trên lâm sàng tại Bệnh viện K

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả phẫu thuật ung thư vú không sờ thấy trên lâm sàng tại Bệnh viện K
Tác giả
Đỗ Anh Tú; Lê Hồng Quang; Trần Nguyên Tuấn
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
71-75
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả của phẫu thuật Ung thư vú không sờ thấy trên lâm sàng. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca bệnh hồi cứu bệnh nhân được chẩn đoán Ung thư vú không sờ thấy trên lâm sàng. Được điều trị bằng phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn biến đổi hoặc bảo tồn kèm vét hạch nách tại Bệnh viện K từ Tháng 1 năm 2018 đến Tháng 6 năm 2023. Kết quả: Trong số 55 bệnh nhân trong nghiên cứu, có 28 trường hợp ung thư vú tại chỗ và có 27 trường hợp xâm nhập. Lý do vào viện hay gặp nhất là khám sức khỏe định kỳ phát hiện u vú chiếm 46/55 trường hợp. Chỉ số khối cơ thể (Body mass index) trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 22.0, nhỏ nhất là 18.8 và lớn nhất 25.0. Trong số những bệnh nhân ung thư vú tại chỗ, kích thước u trung bình trên giải phẫu bệnh là 1.07 cm, có 8 trường hợp u không tạo khối, không xác định được kích thước u. Trong số 27 bệnh nhân thể xâm nhập, kích thước u trung bình trên giải phẫu bệnh 1.1cm, u bé nhất 0.3cm và lớn nhất là 3.0cm. Số ca phuật thuật bảo tồn chiếm 16.4 % (9/55 ca). Số lượng hạch vét được trung bình trong nghiên cứu là 10.0, số lượng hạch vét được lớn nhất là 20 hạch và có 2 ca chỉ kiểm tra hạch nách. Trong đó có 2/55 ca di căn hạch nách chiếm 3.6%, cả 2 đều di căn 1 hạch. Giai đoạn sau mổ:giai đoạn 0 chiếm 50.9%, giai đoạn I chiếm 41.8%, giai đoạn II chiếm 7.3%. Biến chứng sớm thường gặp sau mổ và duy nhất trong nghiên cứu này là đọng dịch vết mổ, chiếm tỉ lệ 7.3% (4/55 ca). Không gặp biến chứng phù bạch mạch trong nghiên cứu. Điều trị bổ trợ chiếm chủ yếu sau mổ là điều trị nội tiết 28/55 ca, chiếm 50.9%. Kết luận: Ung thư vú không sờ thấy trên lâm sàng thường được phát hiện qua khám sức khỏe định kỳ khi chưa có dấu hiệu gì trên lâm sàng. Khoảng 50% số trường hợp là ung thư tại chỗ, chưa xâm nhập. Những trường hợp ung thư xâm nhập đa phần u ở giai đoạn T1. Tỷ lệ phẫu thuật bảo tồn cao hơn, tỷ lệ di căn hạch nách rất thấp và biến chứng sau mổ rất hiếm, chỉ gặp biến chứng đọng dịch và có thể quyết được bằng chọc hút dịch. Điều trị bổ trợ sau mổ chủ yếu là điều trị nội tiết, thậm chí nhiều trường hợp không cần điều trị. Kiến nghị: Cần nâng cao nhận thức và phổ biến rộng rãi chương trình sàng lọc Ung thư vú qua chụp xquang tuyến vú sàng lọc để phát hiện tổn thương khi chưa sờ thấy trên lâm sàng. Từ đó làm giảm giai đoạn và cải thiện chất lượng điều trị cũng như tiên lượng của ung thư vú.

Abstract

Clinical characteristics, work-ups and outcomes of surgery in non-palpable breast cancer. Methods: Description of a retrospective case series of patients diagnosed with clinically non-palpable breast cancer. Patients then were treated with modified or conservative radical mastectomy with axillary lymph node dissection at K Hospital from January 2018 to June 2023. Results: Among 55 patients in the study, there were 28 cases diagnosed as in situ and 27 cases were invasive cancer. The most common reason for hospitalization was a routine health check-up to detect breast tumors, accounting for 46/55 cases. The average body mass index of the study group was 22.0, the smallest was 18.8 and the largest was 25.0. Among patients with in situ breast cancer, the average tumor size was 1.07cm. There were 8 cases of non-massive tumors, which tumor size could not be determined. Among 27 patients with invasive tumors, the average tumor size was 1.1cm, the smallest one was 0.3cm and the largest one was 3.0cm. The number of conservative surgical procedures accounts for 16.4% (9/55 cases). The average number of lymph nodes removed in the study was 10.0, the largest number of lymph nodes removed was 20 and there were 2 cases when surgeons only examined axillary lymph nodes. Of these, 2/55 cases metastasized to axillary lymph nodes, accounting for 3.6%, both of which metastasized to 1 lymph node. Postoperative stage: stage 0 accounts for 50.9%, stage I accounts for 41.8%, stage II accounts for 7.3%. The only early complication in this study was surgical wound seroma, accounting for 7.3% (4/55 cases). No complications of lymphedema were encountered in the study. The main adjuvant treatment after surgery is endocrine treatment in 28/55 cases, accounting for 50.9%. Conclusion: Breast cancer that can not be examined clinically is often detected through routine health examinations when there are no clinical signs. About 50% of cases are in situ, non-invasive cancers. Most invasive cancer cases are in stage T1. The rate of conservative surgery is higher, the rate of axillary lymph node metastasis is very low and postoperative complications are very rare, only complications of seroma occur and can be resolved by fluid aspiration. Adjuvant treatment after surgery is mainly endocrine treatment, and in many cases no treatment is even needed. Recommendation: It is necessary to raise awareness and widely disseminate the Breast Cancer screening program through screening mammography to detect lesions that are not yet palpable clinically. This will reduce the stage and improve the quality of treatment as well as the prognosis of breast cancer.