Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả và biến chứng phẫu thuật cố định sai khớp cùng đòn cấp tính bằng nẹp móc

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả và biến chứng phẫu thuật cố định sai khớp cùng đòn cấp tính bằng nẹp móc
Tác giả
Nguyễn Năng Giỏi; Nguyễn Văn Lượng
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
66-69
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá kết quả và biến chứng sau điều trị phẫu thuật cố định sai khớp cùng đòn cấp tính bằng nẹp móc. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu, đánh giá kết quả và biến chứng 42 bệnh nhân sai khớp cùng đòn độ III – V được phẫu thuật cố định bằng nẹp móc từ 6/2011 đến 6/2020. Các BN được đánh giá lâm sàng và Xquang trước - sau mổ và tại thời điểm theo dõi xa nhất. Đánh giá kết quả lâm sàng dựa vào thang điểm Constant Score và UCLA. Đánh giá kết quả trên xquang dựa vào so sánh khoảng cách quạ đòn bên mổ so với bên lành tính theo tỉ lệ phần trăm. Kết quả: 28 BN nam và 07 BN nữ, tuổi trung bình là 36 ± 7 tuổi (từ 18- 62 tuổi), 11 BN sai khớp cùng đòn độ III và 31 BN sai khớp độ V. Thời gian theo dõi trung bình là 38,8 tháng. Điểm Constant trung bình là 86,8 điểm, điểm UCLA trung bình là 31,2 điểm. Khoảng cách quạ - đòn bên lành là 7,6 ± 2,1 mm, bên mổ là 7,9 ± 1,9 mm, sự khác biệt là 0.3 ± 0.2 mm (p>0,05). 14/42 BN có hình ảnh tiêu xương dưới mỏm cùng vai. Kết luận: Phẫu thuật cố định khớp cùng đòn sai khớp cấp tính bằng nẹp móc cho phép cố định vững, BN tập vận động sớm, khôi phục chức năng tốt. Tuy nhiên, cần lựa chọn nẹp phù hợp giải phẫu và cần tháo nẹp sớm để hạn chế biến chứng tiêu xương dưới mỏm cùng vai.

Abstract

The purpose of our study is to evaluate clinical outcomes and complications. This was retrospective research of 35 patients with Rockwood following surgical treatment of acute acromioclavicular dislocations using a hook plate. Materials and methods: Type III-V lesions, who underwent surgical treatment using a hook plate between June 2011 and June 2020. A functional shoulder was assessed with the Constant score and UCLA score. Radiological follow-up included comparative coracoclavicular distance measurements. Results: 33 males and 9 females were included in the study, with an average of 32 ± 12 years old (18 – 62). There were 11 patients with Rockwood type III and 31 patients with type V. The mean follow-up period was 38,8 months. The average Constant Score and UCLA Score at the last follow-up were 86,8 and 31,2 respectively. The coracoclavicular distance of the injured shoulder and the contralateral unaffected shoulder was 7.6 ± 2.1 mm and 7.9 ± 1.9 mm, respectively; the difference was 0.3 ± 0.2 mm with p> 0.05. Subacromial osteolysis occurred in 14 patients. Conclusion: Surgical treatment of acute acromioclavicular dislocations using a hook plate provided stable fixation, early rehabilitation, and good functional outcomes. However, it is essential to select the anatomical plate and remove it soon to reduce the rate of subacromial osteolysis.