
Nghiên cứu nhằm khảo sát chất lượng cuộc sống của bệnh nhi suy thận mạn giai đoạn cuối được điều trị bằng phương pháp thay thế thận và một số yếu tố liên quan. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, khảo sát trên 62 bệnh nhi suy thận mạn giai đoạn cuối đang điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 2, sử dụng thang đo PedsQLTM 4.0. Kết quả: Độ tuổi trẻ suy thận mạn được điều trị bằng phương pháp thay thế thận chiếm tỉ lệ cao nhất là từ 13 – 16 tuổi (54,8%), có 27,4% trẻ không sống chung với ba và mẹ, 79,0% trẻ đã phải nghỉ học khi tiếp nhận điều trị. Trẻ đang được điều trị bằng phương pháp lọc thận nhân tạo chiếm tỉ lệ 59,7% với điểm chất lượng cuộc sống là 50,4 ± 18,3 và trẻ đang được điều trị bằng phương pháp thẩm phân phúc mạc chiếm tỉ lệ 40,3% với điểm chất lượng cuộc sống là 47,8 ± 12,5, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong chất lượng cuộc sống về thể chất giữa hai phương pháp điều trị này (p= 0,0084). Những trẻ có biến chứng khi điều trị thay thế thận có điểm chất lượng cuộc sống (40,9 ± 11,9) thấp hơn so với trẻ không có biến chứng (53,4 ± 16,4), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p= 0,003). Kết luận: Tư vấn cho thân nhân và bệnh nhi những trường chuyên biệt dành cho trẻ có bệnh lý mạn tính để trẻ tiếp tục tham gia học tập; tư vấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng cho điều dưỡng, thân nhân, bệnh nhi về các phương pháp điều trị thay thế thận để hạn chế xảy ra biến chứng, cách chăm sóc và xử trí khi có biến chứng.
The study aims to investigate the quality of life of pediatric end-stage chronic kidney failure patients treated with kidney replacement therapy and some related factors. Methods: Describe a series of cases, survey on 62 pediatric end-stage chronic kidney failure patients being treated at Children's Hospital 2, using the PedsQLTM 4.0 scale. Results: The highest age of children with chronic kidney failure treated with kidney replacement is from 13 to 16 years old (54.8%), with 27.4% of children not living with their parents, 79.0% of children had to drop out of school when receiving treatment. Children being treated with artificial kidney dialysis account for 59.7% with a quality of life score of 50.4 ± 18.3 and children are being treated with peritoneal dialysis accounting for 40.3% with a quality of life score of 47.8 ± 12.5, there is a statistically significant difference in physical quality of life between these two treatment methods (p= 0.0084). Children with complications from renal replacement therapy had lower quality of life scores (40.9 ± 11.9) than children without complications (53.4 ± 16.4), this difference may statistical significance (p= 0.003). Conclusion: Advise relatives and pediatric patients on specialized schools for children with chronic diseases so that children can continue to participate in learning; counseling, and improve knowledge and skills for nurses, relatives and patients, pediatricians about kidney replacement treatments to limit complications, how to care for them and how to handle them when complications arise.
- Đăng nhập để gửi ý kiến