Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát đặc điểm thắng môi trên người trưởng thành

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát đặc điểm thắng môi trên người trưởng thành
Tác giả
Trần Lâm Minh Thư; Trần Ngọc Thụy Minh; Nguyễn Bùi Thanh Trâm; Huỳnh Hữu Thục Hiền
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
183-188
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm khảo sát vị trí và hình dạng thắng môi trên ở người Việt trưởng thành; đồng thời đánh giá cảm nhận về thẩm mỹ, chức năng và nhu cầu điều trị ở những trường hợp vị trí thắng bám bất thường. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 1.598 sinh viên năm thứ nhất Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHYD TPHCM) bằng cách quan sát trực tiếp, ghi nhận vị trí bám thắng môi trên theo phân loại Mirko 1974 và hình dạng thắng môi trên theo phân loại Sewerin 1971. Sử dụng bảng câu hỏi để đánh giá cảm nhận cá nhân về thẩm mỹ, chức năng và nhu cầu điều trị ở những người có thắng bám bất thường. Kết quả: Qua khảo sát 1.598 sinh viên gồm 962 nữ (60,2%) và 636 nam (39,8%) ghi nhận đa số (70%) có thắng môi đơn giản (loại 1). Có mối liên quan giữa hình dạng thắng và giới (p < 0,05). Thắng môi loại có nốt, có mẩu thừa và có chỗ lõm gặp ở nam nhiều hơn nữ; thắng môi đơn giản và dạng vòm ở nữ nhiều hơn nam. Nhưng không khác biệt trong từng loại giữa hai giới. Về vị trí, phần lớn thắng môi trên bám vào niêm mạc (65,9%) và vào nướu dính (30,9%). Có 51 người (3,2%) có thắng bám thấp, trong đó 17 người có khe hở giữa hai răng cửa giữa hàm trên. Tỉ lệ có khe hở giữa hai răng cửa giữa ở nhóm thắng bám vào gai nướu là 28% và ở nhóm thắng xuyên qua gai nướu là 100%. Tỉ lệ khe hở ở nhóm thắng bám bất thường và bình thường khác nhau có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Chỉ 17,6% những trường hợp có thắng môi bám thấp có nhu cầu can thiệp để cải thiện thẩm mỹ. Kết luận: Đa số thắng môi có hình dạng thuộc loại đơn giản (70%); phần lớn thắng môi trên bám vào niêm mạc (65,9%) và nướu dính (30,9%).

Abstract

Investigate the position and shape of the upper lip frenum in Vietnamese adults; evaluate the perceptions of aesthetic, functional, and treatment needs in cases of abnormal frenum position. Method: The cross-sectional in 1598 first-year students of the University of Medicine and Pharmacy at Ho Chi Minh City (UMP) recorded through direct observation of the frenal attachment according to the Mirko 1974 and the shape according to the Sewerin 1971. A questionnaire has been used to evaluate the personal perceptions of aesthetic, functional, and treatment needs in individuals with abnormal frenum attachment. Results: In 1598 first-year students including 962 females (60.2%) and 636 males (39.8%), majority (70%) had simple frenum. There was a significant correlation between frenum shape and gender (p<0.05). The types with a nodule, appendix, and nichum were more frequently observed in males, whereas the simple and tectolabial types were more frequently observed in females. But there was no significant difference between genders within each type. In terms of position, the majority of frenums attached to the mucosa (65.9%) and to the gingiva (30.9%). 51 individuals (3,2%) had abnormal frenums, among which 17 people had diastemas. 28% of the papillary-attached group had diastemas, whereas 100% of the papillary-penetrated group had this condition. The diastemas percentage in normal and abnormal group is statistically significant (p < 0,01). Only 17.6% of cases with abnormal frenum have a desire for intervention to improve aesthetics. Conclusion: The most popular frenum type belongs to the simple (70%) and attached-mucosa (65.9%) and attached-gingiva (30.9%). The abnormal attachment position of the upper frenum relates to the presence of diastema (p < 0,01).