Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát hình thái xương bánh chè người Việt Nam

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát hình thái xương bánh chè người Việt Nam
Tác giả
Phạm Quốc Quan Sang, Lê Ngọc Quyên, Trần Gia Hân
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
141-144
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định đặc điểm hình thái của xương bánh chè trên phim chụp cắt lớp vi tính. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Khảo sát 100 xương bánh chè từ phim chụp cắt lớp vi tính 2 chân của 50 người Việt Nam trên 18 tuổi tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM. Dựng hình xương bánh chè trong mặt phẳng 3 chiều bằng Mimics Software System 21.0, thực hiện đo 7 chỉ số xương bánh chè. Dùng kiểm định t để so sánh biến định lượng phân phối chuẩn, Mann-Whitney khi phân phối không chuẩn qua phần mềm thống kê STATA 14.0. Kết quả: Nghiên cứu có tuổi trung bình là 51.2, tỉ lệ nam:nữ là 1:1. Chiều cao và chiều rộng xương bánh chè trung bình lần lượt là là 40,13 mm và 43,07 mm. Độ dày phần cắt xương bánh chè trung bình là 9,88 mm. Độ dày phần còn lại xương bánh chè trung bình là 11,39 mm. Chiều cao và chiều rộng mặt cắt xương bánh chè trung bình lần lượt là 34,89 mm và 41,24 mm. Vị trí tương quan của điểm trung tâm của gờ bánh chè so với điểm trung tâm của mặt cắt bánh chè: 98% trên – trong, 2% trên – ngoài. Kết luận: Các dữ liệu từ nghiên cứu này có thể hữu ích trong việc lên kế hoạch trước mổ và ứng dụng trong xác định vị trí đặt bánh chè nhân tạo khi phẫu thuật thay khớp gối toàn phần. Đồng thời, kết quả của nghiên cứu là nền tảng để tiến hành các thiết kế của dụng cụ bánh chè nhân tạo phù hợp cho người Việt Nam.

Abstract

To determine the morphological characteristics of the patella using computed tomography scans. Methods: This study describes a series of cases involving the survey of 100 patellas from computed tomography scans of both legs of 50 Vietnamese individuals over 18 years old at the Department of Imaging Diagnostics, University of Medicine and Pharmacy Hospital, Ho Chi Minh City. The patella was reconstructed in a 3-dimensional model using Mimics Software System 21.0, and 7 patella indices were measured. A t-test was used to compare the normal distribution of quantitative variables, and the Mann-Whitney test was employed when the distribution was not normal through STATA 14.0 statistical software. Results: This study had an average age of 51.2 years old, and a male-to-female ratio of 1:1. The average patellar height and width were 40.13 mm and 43.07 mm, respectively. The average patellar section thickness was 9.88 mm, and the average patellar residual thickness was 11.39 mm. The average patellar cut height and width were 34.89 mm and 41.24 mm, respectively. The relative position of the center point of the patellar ridge compared to the center point of the patellar cut was 98% superior-medial and 2% superior-lateral. Conclusions: The data from this study may be valuable in preoperative planning and determining the location of the patella component during total knee replacement surgery. Additionally, the results of this study serve as the foundation for designing suitable artificial patellar devices for the Vietnamese population.