Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát thực trạng phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn bẩm sinh ở trẻ em tại Việt Nam

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát thực trạng phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn bẩm sinh ở trẻ em tại Việt Nam
Tác giả
Phạm Ngọc Thạch; Trần Quốc Việt; Trần Trọng Phương Trừ; Mai Thị Trọn; Lưu Thanh Bình; Nguyễn Minh Ngọc
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
CD3
Trang bắt đầu
275-282
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Khảo sát thực trạng phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn bẩm sinh ở trẻ em tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên phạm vi dân số phẫu thuật viên ngoại nhi toàn quốc tại Việt Nam. Các kết quả được ghi nhận và phân tích các đặc điểm dân số, tỷ lệ ứng dụng PTNS và mổ mở, các đặc điểm thuận lợi và khó khăn trong việc ứng dụng PTNS điều trị TVB ở trẻ em. Kết quả: Có 111 phẫu thuật viên nhi toàn quốc tham gia vào nghiên cứu này; TP. Hồ Chí Minh (56) và Hà Nội (19) chiếm 67,6%. Khảo sát về tỷ lệ chỉ định phẫu thuật điều trị TVB: 58,6% chọn PTNS hoặc mổ mở tùy theo trường hợp: lứa tuổi, giới; 3,6% chọn vì lý do TVB tái phát hoặc thẩm mỹ. 17,1% chọn phẫu thuật mở. Khảo sát các khó khăn khi triển khai PTNS: 49,5% không có các dụng cụ chuyên dụng, 27,9% không ghi nhận khó khăn về mặt kỹ thuật khi triển khai, 2,7% cho rằng chi phí phẫu thuật cao. Khảo sát khuynh hướng ứng dụng PTNS: 48,6% đang ứng dụng PTNS, 28,8% sẽ ứng dụng PTNS, 9% chỉ ứng dụng PTNS trong từng trường hợp cụ thể, và 13,5% dân số vẫn tiếp tục mổ mở. Khi phân tích hồi qui logistic đa biến, ghi nhận dân số tham gia khảo sát ở những trung tâm thường xuyên điều trị TVB trẻ em (>100 TH/ năm) có khuynh hướng chọn PTNS, với AOR= 3.4, khoảng tin cậy 95% [1,0 – 11,3], P<0,05. Kết luận: Tỷ lệ ứng dụng PTNS điều trị TVB ở trẻ em hiện nay tại Việt Nam khá cao. Tuy nhiên, những hạn chế về kỹ thuật, chi phí, dụng cụ kỹ thuật chuyên dụng còn là vấn đề đáng quan tâm.

Abstract

To investigate the status of surgical treatment of congenital inguinal hernia in children in Vietnam. Methods: Descriptive cross-sectional study on the national pediatric surgeons in Vietnam. The results were recorded and analyzed population characteristics, rate of using laparoscopic and open surgery, and advantages and disadvantages of applying laparoscopic techniques in pediatric inguinal hernia repair. Results: The 111 pediatric Vietnamese surgeons nationwide participated in this study; Ho Chi Minh City (56) and Hanoi (19) accounted for 67.6%. Survey on the rate of indications for surgery for TVB: 58.6% choose laparoscopic or open surgery depending on the case: age, gender; 3.6% chose for recurrent TVB or cosmetic reasons. 17.1% chose open surgery. Survey of difficulties when implementing laparoscopy: 49.5% did not have specialized tools, 27.9% had no technical problems in implementation, and 2.7% thought that surgery costs were high. Survey on the trend of laparoscopic application: 48.6% are using laparoscopic surgery, 28.8% will use laparoscopic surgery, 9% only apply laparoscopic surgery in each specific case, and 13.5% of the population continue the open surgery. When analyzing multivariable logistic regression, it was noted that the survey population in centers that regularly performed hernia repair (>100 cases/year) tended to choose laparoscopic surgery, with AOR= 3.4, 95%CI [1.0 – 11.3], P<0.05. Conclusions: The rate of application of laparoscopic surgery for inguinal hernia repair in children is relatively high in Vietnam. However, technical limitations, costs, and specialized technical tools are still a concern.