Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Mang thai trên bệnh nhân nữ bạch cầu mạn dòng tủy: Báo cáo ca lâm sàng và y văn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Mang thai trên bệnh nhân nữ bạch cầu mạn dòng tủy: Báo cáo ca lâm sàng và y văn
Tác giả
Lê Vũ Hà Thanh; Dương Thị Minh Nhật
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
DB1
Trang bắt đầu
298-303
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả các đặc điểm của bệnh nhân nữ bạch cầu mạn dòng tủy (BCMDT) trong thời kỳ mang thai và cách xử trí cũng như kết quả. Đối tượng và phương pháp: Báo cáo ba trường hợp bạch cầu mạn dòng tủy mang thai trước/ trong quá trình điều trị. Các thông tin về chẩn đoán, đặc điểm lâm sàng, quá trình điều trị, quá trình mang thai, kết quả cuộc sanh, đánh giá đáp ứng điều trị sau khi sinh sẽ được ghi nhận và mô tả trong bài báo này. Kết quả: Một bệnh nhân phải chấm dứt thai kỳ khi thai 12-13 tuần tuổi. Hai bệnh nhân còn lại sanh được 2 em bé lúc thai khoảng 37-38 tuần tuổi. Một bệnh nhân đạt đáp ứng sinh học phân tử sâu sau khoảng 2 năm khi bắt đầu điều trị ngay lần đầu với Imatinib liều 400mg/ ngày và không cho bé bú mẹ trong thời gian dùng thuốc. Bệnh nhân còn lại sau 13 tháng sanh con mới điều trị lại Imatinib lần 2 và hiện tại vẫn chưa đạt được đáp ứng di truyền học tế bào. Kết luận : Việc điều trị cho phụ nữ mang thai mắc BCMDT là khó khăn, nên đánh giá và thảo luận kỹ trên từng trường hợp. Nên lập kế hoạch thụ thai và tư vấn các rủi ro cá nhân khi ngừng điều trị TKI trong giai đoạn mang thai.

Abstract

Describe the characteristics of female patients chronic myeloid leukemia (CML) during pregnancy and their management and outcomes. Methods: A report of three pregnancies with chronic myeloid leukemia Results: Pregnancy termination was indicated in one patient at 12-13 weeks gestation. The remaining two patients delivered two babies at 37-38 weeks gestation. One patient achieved a deep molecular response approximately two years after initiating immediate treatment with the first time Imatinib 400 mg/day and did not breastfeed while taking the drug. The remaining patient 13 months after childbirth was treated with Imatinib for the second time and has not yet achieved a cytogenetic response. Conclusions: The treatment of pregnant women with CML is complicated and should be evaluated and discussed on a case-by-case basis. Conceiving planning should be done and individual risks should be consulted when TKI is discontinued.