Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Mối tương quan giữa đường kính bao dây thần kinh thị sau nhãn cầu trên siêu âm với các giá trị áp lực nội sọ đo được bằng các biện pháp xâm lấn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Mối tương quan giữa đường kính bao dây thần kinh thị sau nhãn cầu trên siêu âm với các giá trị áp lực nội sọ đo được bằng các biện pháp xâm lấn
Tác giả
Nguyễn Anh Tuấn; Vương Xuân Trung
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1A
Trang bắt đầu
222-226
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Tăng áp lực nội sọ là một biến chứng nặng ở những bệnh nhân đột quị, cần có những biện pháp chẩn đoán nhanh chóng chính xác, kịp thời để xử trí cấp cứu. Những biện pháp đánh giá áp lực nội sọ không xâm lấn có ưu điểm cho kết quả nhanh chóng, có thể tiến hành tại giường và làm nhiều lần. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu áp dụng phương pháp siêu âm đo đường kính bao dây thần kinh thị sau nhãn cầu ở những bệnh nhân được theo dõi áp lực nội sọ xâm nhập (được coi là tiêu chuẩn vàng) để đánh giá mức độ chính xác của phương pháp không xâm nhập này. Kết quả: có mối tương quan giữa đường kính bao dây thần kinh thị và áp lực nội sọ với r = 0.64 (p < 0.05). Khi sử dụng điểm cut-off: 5.55 mm để chẩn đoán TALNS (ALNS ≥ 20mmHg) thì có Se và Sp tương ứng là: 96.4% và 62.3%. Kết luận: Siêu âm đo đường kính bao dây thần kinh thị là một cận lâm sàng tốt trong chẩn đoán tăng áp lực nội sọ.

Abstract

Increased intracranial pressure (ICP) is a severe complication of the stroke patient. The diagnosis need the equipment and invasive technique to early measure the ICP for treatment plan. Noninvasive technique such as ultrasound play the important role because we can perform it bedside, realtime and multiple. We conducted the study to apply the ONSD (optic nerve sheath diameter) ultrasound technique to monitor the ICP level of neurocritical patient. Al patients were measured the ICP by invasived device. Results: the correlation between the ONSD and the ICP with r = 0,64 (p<0,05). With the cut-off point of 5.55 mm to diagnosis the increased ICP over 20mmHg, the Se and Sp was relatively 96,4 and 62.3%. Conclusion: ONSD ultrasound is a proper technique to monitor the ICP in critical stroke patient on emergency setting.