Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng bệnh nhân giả đột quỵ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng bệnh nhân giả đột quỵ
Tác giả
Đặng Phúc Đức; Đỗ Đức Thuần; Hoàng Tiến Tuyên; Phạm Quốc Huy; Lưu Cảnh Toàn
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
DB1
Trang bắt đầu
30-36
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá đặc điểm lâm sàng các bệnh nhân (BN) giả đột quỵ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả - cắt ngang. Toàn bộ BN vào khoa cấp cứu, khoa Đột quỵ được theo dõi và chia vào 2 nhóm: giả đột quỵ và đột quỵ. So sánh đặc điểm lâm sàng giữa 2 nhóm. Kết quả: Tỷ lệ giả đột quỵ chiếm 9,6%. Tuổi trung bình của BN giả đột quỵ 50,2 ± 22,7, thấp hơn nhóm BN đột quỵ 66,5 ± 21,3, (p < 0,05). Tiền sử tăng huyết áp ở nhóm giả đột quỵ 48,3%, thấp hơn nhóm đột quỵ (73,3%), (p < 0,05). Nhóm giả đột quỵ có triệu chứng liệt nửa người 58,6%; liệt dây VII 20,7%, thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đột quỵ (76,6% và 65,7%). BN có đầy đủ 3 triệu chứng theo thang điểm FAST ở nhóm giả đột quỵ 13,8%, thấp hơn nhóm đột quỵ (40,9%), (p < 0,05). Điểm NIHSS < 5 điểm ở nhóm giả đột quỵ 37,9%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm đột quỵ (16,8%). Kết luận: Bác sỹ lâm sàng cần luôn thận trọng trong chẩn đoán bước đầu đột quỵ não vì tỉ lệ có thể gặp sai sót chẩn đoán có thể tới 9,6%. Thang điểm FAST có giá trị thực hành trong chẩn đoán sàng lọc đột quỵ.

Abstract

To evaluate the clinical characteristics of patients with stroke mimics. Subjects and methods: Descriptive - cross-sectional study. All patients entering the emergency department and stroke department were monitored and divided into 2 groups: stroke mimics group and stroke group. Comparison of clinical features between the two groups. Results: The rate of stroke mimics accounted for 9.6%. The mean age of patients with stroke mimics was 50.2 ± 22.7, lower than the group of stroke 66.5 ± 21.3, (p < 0.05). The medical history of hypertension in the stroke mimics group was 48.3%, lower than that of the stroke group (73.3%), (p < 0.05). The stroke mimics group had hemiplegia symptoms 58.6%; VII nerve palsy was 20.7%, statistically significantly lower than in the stroke group (76.6% and 65.7%). Patients had all 3 symptoms according to the FAST score in stroke mimics group 13.8%, lower than the stroke group (40.9%), (p < 0.05). The NIHSS score < 5 points in the stroke mimics group was 37.9%, higher than that in the stroke group (16.8%). Conclusion: Clinicians should always be cautious in admission diagnosis of stroke because the rate of possible diagnostic errors can be as high as 9.6%. The FAST score has practical value in the diagnosis and screening of stroke.