Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu kết quả can thiệp động mạch vành qua da bằng đường vào đoạn a động mạch quay ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành mạn tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu kết quả can thiệp động mạch vành qua da bằng đường vào đoạn a động mạch quay ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành mạn tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ
Tác giả
Nguyễn Văn Nhiệm; Phạm Thanh Phong; Ngô Hoàng Toàn; Trần Kim Sơn
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
189-193
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá đặc điểm kỹ thuật và kết quả điều trị hội chứng động mạch vành mạn sử dụng phương pháp can thiệp động mạch vành qua da bằng đường vào đoạn xa động mạch quay. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp, chọn mẫu thuận tiện trên bệnh nhân nội trú được chẩn đoán hội chứng động mạch vành mạn có chỉ định chụp và can thiệp động mạch vành qua da tại Khoa Tim mạch can thiệp - Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 3 năm 2023 đến tháng 3 năm 2024. Kết quả: Kết thúc theo dõi ghi nhận độ tuổi trung bình giữa hai nhóm lần lượt là 65,8 ± 10,2 tuổi (ĐXĐMQ, n=30) và 65,3 ± 9,0 tuổi (ĐMQ, n=30), nam giới chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt là 53,3% và 63,3%. Vị trí tổn thương thường gặp nhất ở cả hai nhóm là LAD, đa phần là tổn thương 1 nhánh động mạch vành. Tổng chiều dài stent ở nhóm ĐXĐMQ thấp hơn so với nhóm ĐMQ với 9,3 ± 3,9mm so với 11,5 ± 1,9mm (p<0,05). Thời gian đau sau can thiệp và thời gian băng ép ở nhóm can thiệp qua ĐMQ cao hơn so với nhóm ĐXĐMQ (p<0,01). 100% bệnh nhân ở cả hai nhóm được can thiệp thành công với dòng chảy TIMI III đạt được ở toàn bộ bệnh nhân sau can thiệp. nhóm can thiệp ĐMQ có 2 bệnh nhân suy thận cấp do thuốc cản quang. Tắc động mạch quay, tụ máu tại vị trí đâm kim và tê bì bàn tay sau can thiệp ở nhóm ĐXĐMQ lần lượt là 3,3%; 3,3% và 6,7% so với 3,3%; 6,6% và 23,3% ở nhóm ĐMQ. Kết luận: Phương pháp can thiệp động mạch vành qua da bằng đường vào đoạn xa động mạch quay ở bệnh nhân hội chứng động mạch vành mạn cho kết quả thành cao công với tỷ lệ các biến chứng toàn thân và biến chứng tại chỗ thấp hơn so với can thiệp qua động mạch quay truyền thống.

Abstract

Evaluation of technical characteristics and results of treatment of chronic coronary syndrome using percutaneous coronary intervention using distal radial access. Methods: Interventional study, patients diagnosed with chronic coronary syndrome were indicated for angiography and percutaneous coronary intervention at the Department of Interventional Cardiology - Can Tho Central General Hospital from March 2023 to September March 2024. Results: At the end of follow-up, the average age between the two groups was 65.8 ± 10.2 years old (DRA, n=30) and 65.3 ± 9.0 years (TRA, n=30). Men make up the majority with 53.3% and 63.3%. The most common culprit coronary location in both groups was the LAD. Total stent length in the DRA group was lower than the TRA group with 9.3 ± 3.9mm versus 11.5 ± 1.9mm (p<0.05). Post-intervention pain time and compression bandage time in the TRA intervention group were higher than the DRA group (p<0.01). 100% of patients in both groups received successful intervention with TIMI III flow. The TRA intervention group had 2 patients with acute kidney failure due to contrast agent. Radial artery occlusion, hematoma at the needle puncture site and hand numbness after intervention in the DRA group were 3.3%, 3.3% and 6.7% compared to 3.3%, 6.6% and 23.3% in the TRA group. Conclusions: Percutaneous coronary intervention using distal radial access in patients with chronic coronary syndrome shows highly successful results with a lower rate of systemic and local complications.