Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu mối tương quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, siêu âm với kết quả tế bào học ở bệnh nhân có bướu nhân tuyến giáp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu mối tương quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, siêu âm với kết quả tế bào học ở bệnh nhân có bướu nhân tuyến giáp tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
Tác giả
Phạm Tiến Đạt; Nguyễn Thị Thanh Thuỷ; Đỗ Đình Tùng
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
44-48
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình nhằm phát hiện các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân có bướu nhân tuyến giáp (BNTG) giúp cho việc chẩn đoán, phát hiện sớm và kịp thời. Phân tích số liệu từ 318 bệnh nhân, tuổi trung bình 51,13 ± 14,928 cho thấy: Bệnh nhân nữ chiếm đa số với 89% và 81% ở độ tuổi 31-60 tuổi. Đa số bệnh nhân ở hai nhóm lành tính và ác tính đều ở trạng thái bình giáp. Không có sự khác biệt giữa nhóm lành tính và ác tính về xét nghiệm Anti TPO, anti TG, các nhóm kích thước nhân, hạch cổ, viền giảm âm. Xét nghiệm TG khác nhau ở 2 nhóm có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ ác tính bướu nhân đặc cao hơn so với bướu nhân hỗn hợp và bướu nhân nang, tỷ lệ có canxi hóa vi thể, tỷ lệ ranh giới không rõ ở nhóm BNTG ác tính cao hơn nhóm lành tính có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Nhân tuyến giáp có phân loại TIRADS càng cao có tỷ lệ ác tính càng tăng, p<0,05. Kết luận: Ở nhóm BNTG ác tính chủ yếu là nhân đặc giảm âm. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ nhân tuyến giáp có canxi hoá vi thể, ranh giới không rõ, xét nghiệm TG ở 2 nhóm bệnh nhân BNTG lành tính và ác tính. Nhân tuyến giáp có phân loại theo TIRADS càng cao có tỷ lệ ác tính càng lớn.

Abstract

The section comparing clinical, subclinical, and ultrasound characteristics with cytological results in patients with thyroid nodules at Thai Binh Provincial General Hospital is the basis for detecting clinical and laboratory characteristics. Clinical examination of patients with thyroid nodules going to the general hospital of Thai Binh province helps patients with thyroid nodules to be examined and detected early and promptly. Conducting clinical and subclinical examination of 318 patients with an average age of 51.13 ± 14,928 showed that: Female patients accounted for the majority with 89% and 81% of patients were aged 31-60 years old. The majority of patients in both benign and malignant groups are euthyroid. There was no difference between the benign and malignant groups in terms of anti-TPO, anti-TG, nuclear size groups, cervical lymph nodes, hypoechoic border. TG test was different in 2 groups with statistical significance with p<0.05. The rate of malignancy of solid nodule is higher than that of mixed nodular and cystic, the rate of microcalcification, the rate of unknown boundary in the group of malignant TNBC is higher than that of benign group with statistical significance. p < 0.05. The higher the TIRADS classification, the higher the rate of malignancy, the difference is statistically significant. Conclusion: In the group of malignancies, mainly hypoechoic solid nodules. There was a statistically significant difference in the proportion of thyroid nodules with microcalcifications, unknown boundaries, and TG tests in 2 groups of patients with benign and malignant UTI. The higher the TIRADS classification, the higher the rate of malignancy.