
Khảo sát đặc điểm lâm sàng và tình hình sử dụng thuốc trên sản phụ có tiền sử dị ứng và bước đầu đánh giá sự liên quan giữa các đặc điểm lâm sàng và việc sử thuốc tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 167 sản phụ có tiền sử dị ứng được chỉ định test dị ứng từ 21/03/2021 đến 31/12/2022 và thực hiện các phẫu thuật, thủ thuật tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Kết quả: Trong 167 sản phụ được đưa vào nghiên cứu, hầu hết đều nằm trong độ tuổi sinh sản 25-34 tuổi (68,86%), BMI nằm trong khoảng tiền béo phì (56,3%) và ASA 2 (96,4%). Tiền sử tác nhân dị ứng hay gặp nhất là kháng sinh và NSAIDs-paracetamol (đều 25,2%). Trong kết quả test da, nhóm NMBAs và Opioid (đều chiếm 58,7%) là nhóm thuốc có tỉ lệ dương tính nhiều nhất. 12 (7,2%) trường hợp sản phụ xuất hiện dị ứng chu phẫu. Trung bình mỗi sản phụ dùng 10 loại thuốc, hầu hết các sản phụ đều sử dụng ít nhất 1 loại thuộc nhóm thuốc kháng sinh, thuốc co tử cung, nhóm gây tê. Trong 12 trường hợp sản phụ xuất hiện phản ứng dị ứng, trung bình độ tuổi của nhóm này là 29,92 ± 5,57; chỉ số BMI là 25,56 ± 2,93. Có 10 trường hợp (83,33%) xảy ra ở sản phụ sinh mổ, đều sinh ở tuần thứ 39 và 1 sản phụ test da âm tính. 12 trường hợp tái sử dụng các thuốc đã có kết quả test da dương tính và 4 sản phụ xảy ra dị ứng. Với tác nhân nhóm co tử cung chiếm tỷ lệ cao nhất (41,7%). Kết quả dị ứng xảy ra thường xuyên hơn ở nhóm có tổng số lượng thuốc, số lượng thuốc đường tĩnh mạch và sau khi sinh; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kết quả dị ứng và số lượng thuốc với p<0,05. Số ngày điều trị trung bình của nhóm có phản ứng dị ứng là 3,92 ± 2,47 ngày cao hơn so với nhóm không có phản ứng dị ứng là 3,13 ± 1,45 ngày, với p = 0,089 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Tỷ lệ PNMT có tiền sử dị ứng xảy ra phản ứng quá mẫn cao hơn nhiều so với tỷ lệ trên thế giới. Độ đặc hiệu của test da cần được tiếp tục nghiên cứu và các trường hợp xảy ra dị ứng có thể phòng ngừa thông qua kết quả test da cùng với khai thác tiền sử dị ứng chi tiết trước khi sử dụng thuốc. Số lượng thuốc sử dụng trong quá phẫu thuật, thủ thuật cao hơn ở nhóm có xảy ra dị ứng so với nhóm không có.
To study on clinical characteristics and drugs use in pregnant women with a history of allergies and to evaluate the relationship between clinical characteristics and drug use initially at Phu San Hanoi Hospital in 2021-2022. Methods: Cross-sectional descriptive study conducted on 167 pregnant women with a history of allergies who were prescribed allergy testing from March 21, 2021 to December 31, 2022 and undergoing procedures and surgeries at Phu San Hanoi Hospital. Results: Among 167 pregnant women included in the study, the most comon reproductive age range were from 25 to 34 years old (68.86%), BMI was in the pre-obese range (56.3%) and ASA 2 (96.4%). The most common history of allergic agents is antibiotics and NSAIDs-paracetamol (both 25.2%). In skin test results, NMBAs and Opioids (both accounting for 58.7%) are the drug groups with the highest positive rate. 12 (7.2%) cases of pregnant women had perioperative allergies. On average, each pregnant woman uses 10 types of medicine, most pregnant women use at least 1 type of antibiotic, uterotonic, or anesthetic. In 12 cases of pregnant women having allergic reactions, the average age of this group was 29.92 ± 5.57 years; BMI is 25.56 ± 2.93. There were 10 cases (83.33%) occurring in women giving birth by cesarean section, all delivered at 39 weeks, and 1 woman had a negative skin test. 12 cases of drug reuse had positive skin test results and 4 pregnant women had allergic reactions. With uterine contraction agents, the rate is highest (41.7%). Allergic outcomes occurred more frequently in the total drug quantity, intravenous drug quantity, and postpartum groups; Statistically significant difference between allergy results and drug quantity with p<0.05. The average number of days of treatment for the group with allergic reactions was 3.92 ± 2.47 days, higher than the group without allergic reactions, which was 3.13 ± 1.45 days, with p = 0.089, with no difference. the difference is statistically significant. Conclusion: The rate of pregnant women with a history of allergies experiencing hypersensitivity reactions is much higher than the rate in the world. The specificity of skin testing needs to be further researched and allergic cases can be prevented through skin test results along with detailed allergy history before using the drug. The number of drugs used during surgery or procedures was higher in the group with allergies than in the group without.
- Đăng nhập để gửi ý kiến