Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Phẫu thuật nội soi một đường rạch nối tá-tá tràng điều trị tắc tá tràng bẩm sinh

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Phẫu thuật nội soi một đường rạch nối tá-tá tràng điều trị tắc tá tràng bẩm sinh
Tác giả
Trần Ngọc Sơn; Nguyễn Thị Hồng Vân; Hoàng Văn Bảo
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
6-9
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả kỹ thuật phẫu thuật nội soi một đường rạch (PTNSMĐR) nối tá tá tràng điều trị tắc tá tràng bẩm sinh (TTTBS) ở trẻ em. Phương pháp nghịên cứu: Báo cáo 1 ca bệnh và tổng quan y văn. Kết quả: Bệnh nhân (BN) nữ 20 tháng tuổi, nhập viện vì lý do nôn nhiều đợt từ sớm sau sinh, không ăn được thức ăn đặc. suy dinh dưỡng. Dựa vào lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, BN được chẩn đoán TTTBS do teo tá tràng type I (màng ngăn có lỗ) và được chỉ định điều trị phẫu thuật. Chúng tôi rạch da rốn hình chữ Z cải tiến, đặt 2 trocar 5.5mm và 1 trocar 3.5mm trong phạm vi 1 vết rạch này. Dùng optic 300 và dụng cụ nội soi thẳng thông thường bộc lộ tá tràng trên và dưới chỗ tắc. Mở tá tràng dưới chỗ tắc theo trục dọc và trên chỗ tắc theo đường chéo. Nối tá-tá tràng kiểu đơn giản với chỉ PDS 5.0 mũi rời.. Không có mất máu đáng kể, không có tai biến trong mổ. Thời gian mổ là 130 phút. Sau mổ bệnh nhân phục hồi tốt, không có biến chứng, ăn đường miệng từ ngày 3 và ra viện ngày 7 sau mổ. Theo dõi 9 tháng sau mổ, BN không còn triệu chứng, ăn được thức ăn đặc và tăng cần tốt. Thẩm mỹ sau mổ là rất tốt, BN coi như không nhìn thấy sẹo mổ. Kết luận: Kỹ thuật của chúng tôi PTNSMĐR điều trị TTTBS ở trẻ em có thể khả thi, an toàn và có kết quả thẩm mỹ rất tốt.

Abstract

We present our techniques of single incision laparoscopic duodeno-duodenostomy in a child with congenital duodenal obstruction (CDO). Methods: This is a case report and review of the literature. Results: The patient was a 20 month-old girl, admitted to our department for multiple episodes of vomiting with onset very early in the newborn period, inability to eat solid food, malnutrition. Based on the clinical presentations and imaging studies, the diagnosis of CDO, probably due to duodenal atresia type I with fenestrated membrane, was made and the patient was indicated for laparoscopic surgical repair. A modified Z-shaped umbilical incision was made, 15mm in length. Two 5.5mm trocars and one 3.5mm trocar were placed at different points in the same incision. A standard 5mm, 300 laparoscope and conventional straight laparoscopic instruments were used. The duodenum proximal and distal to the obstruction site were exposed. The distal duodenum was incised longitudinally and the proximal duodenum was incised obliquely. Laparoscopic simple duodenoduodenostomy was performed using 5.0 PDS interrupted suture with intracorporal knots. There was no significant blood loss, no intra- and post- operative complications. The operative duration was 130 minutes. The patient resumed oral feeding on POD 3 and was discharged on POD 7. At a follow up 9 months the girl was asymptomatic; she was able to eat solid food and gained weight well. The postoperative cosmesis was excellent as the patient had no visible scar. Conclusions: Our technique of single incision laparoscopic duodeno-duodenostomy for CDO can be feasible, safe with excellent postoperative cosmesis.