Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

So sánh hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và phương pháp bệnh nhân tự kiểm soát đau qua đường tĩnh mạch bằng Morphin sau phẫu thuật tim hở

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
So sánh hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và phương pháp bệnh nhân tự kiểm soát đau qua đường tĩnh mạch bằng Morphin sau phẫu thuật tim hở
Tác giả
Vũ Thị Thục Phương, Bùi Đức Tâm, Trần Công Thành
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
Số Đặc biệt
Trang bắt đầu
84-92
ISSN
0866 - 7551
Tóm tắt

204 bệnh nhân người lớn được phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể từ tháng 5/2020 đến tháng 9/2021 tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội được chia làm 2 nhóm: nhóm ESP (108 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng sử dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và nhóm PCA (96 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng truyền morphin liên tục do bệnh nhân tự kiểm soát. Chúng tôi so sánh mức độ đau của hai nhóm bằng việc sử dụng thang điểm VAS, lượng fentanyl sử dụng trong mổ, lượng morphin sử dụng, thời gian tỉnh và thời gian rút nội khí quản sau mổ cũng như một số tác dụng không mong muốn gặp phải trong 24 giờ sau mổ. 11 Kết quả: Điểm VAS trung bình khi BN nằm yên hít thở sâu tại các thời điểm đánh giá ở hai nhóm đều dưới 3 (tương ứng với mức độ đau ít) (p>0,05). Lượng fentanyl trung bình trong mổ ở nhóm ESP (0,57±0,50 mg) thấp hơn so với nhóm PCA (1,00±0,00 mg) (p<0,05). Lượng morphin tiêu thụ trung bình trong 24 giờ sau mổ ở nhóm ESP (0,23±0,12 mg) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm PCA (17,92±3,32 mg) (p<0,05). Thời gian tỉnh sau mổ (3,80±1,02 giờ ở nhóm ESP; 5,21±1,10 giờ ở nhóm PCA), thời gian rút nội khí quản trung bình (ở nhóm ESP là 8,06±1,60 giờ; ở nhóm PCA là 8,83±1,43 giờ) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ buồn nôn trong nhóm ESP (20,98%) thấp hơn so với nhóm PCA (58,33%) (p<0,05). Kết luận: Cả hai phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS trung bình ≤ 3. Nhóm ESP có lượng tiêu thụ morphin trung bình sau mổ thấp hơn, mức độ hài lòng của BN cao hơn và tỷ lệ buồn nôn, nôn, thở chậm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm PCA.

Abstract

Pain after cardiac surgery is always an obsession of patients and a top concern of anesthesiologists. Experimental subjects challenged by acute pain and patients in chronic pain experience impairments in attention control, working memory, mental flexibility, problem solving, and information processing speed. The two most commonly used analgesia methods are patient-controlled analgesia (PCA) and erector spinea plane block (ESP). Our study aimed to compare the analgesic effect of ESP with PCA in patients after cardiac surgery using extracorporeal circulation and evaluate the disavantages of these two pain relief techniques. Subject and methods: This study was a randomized controlled intervention study of adult patients who underwent open-heart surgery patients with extracorporeal circulation from May 2020 to September 2021 in the Department of Anesthesiology and Intensive Care Unit - Hanoi Heart Hospital. Results: Two hundred and four (204) consecutive patients were collected, included 108 patients in the ESP group and 96 patients in the PCA group. The mean intraoperative fentanyl amount in the ESP group (0.57±0.50 mg) was lower than in the PCA group (1.00±0.00 mg) (p<0.05). The average VAS score when the patient was lying still and taking deep breaths at the time of assessment in both groups was below 3 (corresponding to low pain level) (p>0.05). The mean morphin consumption 24 hours after surgery was significantly lower in the ESP group (0,23±0,12 mg) than in the PCA group (17,92±3,32 mg) (p<0.05). The mean time after surgery in the ESP group (3.80±1.02 hours) and the PCA group (5.21±1.10 hours) had a clear difference between p<0.05. The mean time of extubation in the ESP group (8.06±1.60 hours) was statistically significantly lower than in the PCA group (8.83±1.43 hours) (p<0.05). The rate of nausea in the ESP group (20.98%) was lower than in the PCA group (58.33%) (p<0.05). Conclusion: Both methods had good analgesic effect with an average VAS score ≤ 3. The ESP group had a lower mean postoperative morphine consumption, a higher patient satisfaction level, and a lower rate of nausea, vomiting, and slow breathing statistically significant less than the PCA group.