
Khảo sát tỉ lệ và thời gian sử dụng thuốc ức chế SGLT2 theo 3 nhóm phân suất tống máu (PSTM) giảm, giảm nhẹ, bảo tồn. Mô tả đặc điểm bệnh nhân dùng thuốc ức chế SGLT2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả, cắt ngang trên bệnh nhân suy tim nhập khoa Nội tim mạch bệnh viện Đại học Y Dược Tp. HCM từ tháng 5- 8/2023. Kết quả: Ghi nhận 118 trường hợp nhập viện do suy tim, trong đó có 71 (60,2%) bệnh nhân được sử dụng SGLT2i. Tỉ lệ sử dụng ở nhóm PSTM giảm 78,3%, PSTM giảm nhẹ 66,7%, PSTM bảo tồn 41,2% (p<0,001). Thời gian trung bình sử dụng thuốc sau nhập viện ở PSTM giảm là 2,7±1,8 ngày, PSTM giảm nhẹ 3,1±1,5 ngày và PSTM bảo tồn 4,9±3,9 ngày. Tỷ lệ bệnh nhân được dùng thuốc trong ngày đầu nhập viện ở PSTM giảm 22,9%, PSTM giảm nhẹ 14,3%, PSTM bảo tồn 18,2% (p<0,001). Tỷ lệ sử dụng tứ trụ điều trị suy tim ở nhóm PSTM giảm 41,3%, PSTM giảm nhẹ 14,3%, PSTM bảo tồn 9,8% (p=0,02). Ở nhóm BN được dùng thuốc SGLT2i: PSTM giảm 49,3%, PSTM giảm nhẹ 19,7%, PSTM bảo tồn 31%. Nhóm tuổi trên và dưới 60 tuổi, giới tính, tần số tim, nồng độ hemoglobin, NT-proBNP và tỷ lệ sử dụng thuốc ARBi, ARNI có sự khác biệt giữa nhóm có và nhóm không dùng thuốc ức chế SGLT2. Kết luận: Sử dụng thuốc ức chế SGLT2 nhiều nhất và sớm nhất ở nhóm PSTM giảm và thấp nhất, muộn nhất ở nhóm PSTM bảo tồn. Nhóm dùng thuốc có một số khác biệt lâm sàng, cận lâm sàng với nhóm không dùng thuốc.
To survey the incidence and time of using SGLT2i in 3 groups: Reduced, mildly reduced and preserved ejection fraction. To describe the characters of patients on SGLT2i. Subjects and methods: Prospective, descriptive, cross-sectional study on heart failure patients admitted to the Cardiology Department of University of Medicine and Pharmacy Hospital in HCM city from May 2023 to August 2023. Results: Among 118 cases of hospitalization for heart failure 71 (60.2%) patients were using SGLT2i: HFrEF 78.3%, HFmEF 66.7%, HFpEF 41.2% (p<0.001). In term of prescribed day from admission, HFrEF after 2.7±1.8 days, HFmEF after 3.1±1.5 days, and HFpEF after 4.9±3.9 days. Taking SGLT2i on the first day hospitalization of HFrEF, HFmEF and HFpEF was 22.9%, 14.3%, 18.2% respectively (p<0,001). Using all four-pillar drugs was in the HFrEF 41.3%, HFmEF 14.3%, HFpEF 9.8% (p =0.02). the group using SGLT2i had HFrEF 49.3%, HFmEF 19.7%, HFpEF 31%. Age groups over and under 60 years old, gender, heart rate, hemoglobin, NT-proBNP, and the rate of using ARBi and ARNI drugs were differentiated between the group with and without SGLT2i. Conclusion: SGLT2 inhibitors was prescribed most and earliest in the HFrEF group while least and latest in the HfpEF group. There was a lot of difference between SGLT2 and non-SGLT2 group.
- Đăng nhập để gửi ý kiến