Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Thực trạng lo âu, trầm cảm và yếu tố liên quan ở các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn tại Khoa chăm sóc sức khỏe sinh sản Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Kiên Giang năm 2021

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Thực trạng lo âu, trầm cảm và yếu tố liên quan ở các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn tại Khoa chăm sóc sức khỏe sinh sản Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Kiên Giang năm 2021
Tác giả
Lạc Trần Nguyệt Quyên; Trần Quang Huy; Trương Việt Dũng
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
111-116
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả thực trạng lo âu, trầm cảm ở các cặp vợ chồng điều trị hiếm muộn tại khoa Chăm sóc sức khỏe sinh sản-Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Kiên Giang năm 2021 và phân tích một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích được thực hiện trên 770 đối tượng nghiên cứu (385 cặp vợ chồng) đang điều trị hiếm muộn tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản, CDC tỉnh Kiên Giang và được chọn vào nghiên cứu bằng phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Số liệu được thu thập bằng phát vấn (tự điền) bộ câu hỏi DASS.21. Kết quả: Tỷ lệ lo âu ở người vợ cao hơn so với người chồng (46,2% so với 33,3%). Tỷ lệ trầm cảm ở người vợ và ở người chồng lần lượt là 17,7% và 10,06%. Lo âu và trầm cảm hầu hết ở mức độ nhẹ. Lo âu mức độ nặng và trầm cảm mức độ trung bình chỉ gặp ở người vợ và đều chiếm tỷ lệ nhỏ là 0,5% Yếu tố liên quan với tình trạng lo âu ở nhóm người vợ là ≥ 35 tuổi, tình trạng sống riêng (không ở với gia đình) và thời gian hiếm muộn ≥ 45 tháng (với OR lần lượt là 2,30, 3,75 và 1,74 lần). Yếu tố liên quan với tình trạng lo âu ở nhóm người chồng là tình trạng sống riêng (với OR = 2,2). Yếu tố duy nhất liên quan đến tình trạng trầm cảm ở nhóm người vợ là tình trạng sống riêng với OR = 2,2, trong khi ở nhóm người chồng các yếu tố liên quan đến trầm cảm bao gồm kinh tế khá giả, tình trạng sống riêng với OR tương ứng là 2,58 và 4,74. Kết luận: Tỷ lệ lo âu ở các cặp vợ chồng hiếm muộn là khá cao, tỷ lệ lo âu ở người vợ cao hơn rõ rệt so với người chồng (46,2% so với 33,5%). Tỷ lệ trầm cảm ở người vợ cũng cao hơn so với người chồng (17,7% so với 10,06%). Các yếu tố liên quan đến lo âu ở cặp vợ chồng hiếm muộn bao gồm: tuổi ≥ 35, tình trạng sống riêng, thời gian hiếm muộn, trong đó ở người chồng chỉ có yếu tố tình trạng sống riêng là liên quan có ý nghĩa thống kê. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở cặp vợ chồng hiếm muộn bao gồm: kinh tế khá giả và sống riêng, trong đó ở người vợ chỉ có yếu tố sống riêng là liên quan có ý nghĩa thống kê.

Abstract

To describe the current state of anxiety and depression of infertile couples treated at the Reproductive Health Care Department of the Center for Disease Control of Kien Giang Province in 2021 and analyze some related factors. Methodology: A cross-sectional descriptive study with analysis was carried out on 770 research subjects (385 couples) undergoing infertile treatment at the Reproductive Health Department, CDC Kien Giang Province. The study sample were selected by convenience sampling method. Data were collected by using the self administered DASS.21 questionnaire. Results: The prevalence of anxiety in the wives was higher than that in the husbands (46.2% versus 33.3%). The prevalence of depression in the wives and in the husbands were 17.7% and 10.06%, respectively. Anxiety and depression are mainly at slight and morderate level. Severe anxiety nad m moderate depression only occurred among the wives with a small rate of 0.5%. Factors were statistically significant associated with anxiety in the wife group were age ≥ 35 years old, separate living status and infertile time ≥ 45 months had higher risk of getting anxiety than that in the group of wives under 35 years old, living with family and infertile time < 45 months with ORs of 2.30, 3.75 and 1.74 times, respectively. The factor associated with anxiety in the husband group was living separately with OR = 2.2. The only factor associated with depression in the wife group was living separately with OR = 2.2, while in the husband group the factors related to depression included economic status of better off, separate living with ORs of 2.58 and 4.74, respectively. Conclusions: The rate of anxiety in infertile couples is quite high, the anxiety rate among the wives is significantly higher than that in the husbands (46.2% versus 33.5%). The rate of depression of the wives is also higher than that of the husbands (17.7% versus 10.06%). Factors related to anxiety in infertile couples include: age (≥ 35), living separately, time of infertility, in which the husband only has a statistically significant relationship with the separate living factor. The factors related to depression in infertile couples include: economic well-being (better off) and living separately, in which for the wives, only the separate living factor is associated significantly.