
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan bằng phương pháp tắc mạch hóa chất tại Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, thời gian từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 8 năm 2020. Đối tượng và phương pháp: Gồm 58 bệnh nhân chẩn đoán xác định ung thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng phương pháp tắc mạch hóa chất tại Trung tâm Ung Bướu Thái Nguyên từ Tháng 08/2016 đến tháng 08/2020. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân 56,4 ± 11,9 tuổi. Vị trí u gan chủ yếu ở gan phải, chiếm 82,8%. Kích thước khối u trung bình trong nghiên cứu này là 7,5 ± 3,2cm. Nhóm bệnh nhân có u kích thước từ 5 - 10cm chiếm 44,8%. Sau 1 tháng, có 26,3% số bệnh nhân còn đau HSP so với 58,6% trước tắc mạch. Kích thước trung bình của khối u trước tắc mạch là 71,2 ± 27,5mm, sau tắc mạch 1 tháng, kích thước trung bình của khối u là 67,9 ± 25,9mm. Thời gian sống thêm trung bình là 20,8 ± 1,9 tháng (95% CI: 17,2 - 24,5). Tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 6 tháng là 91,2%, sau 12 tháng là 76,3% và sau 24 tháng là 30,5%. Bệnh nhân có khối u kích thước < 5cm có thời gian sống thêm trung bình là 26,1 ± 3,2 tháng, trong khi nhóm bệnh nhân có khối u > 10cm có thời gian sống thêm trung bình ngắn, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Thời gian sống thêm toàn bộ trung của nhóm bệnh nhân tắc mạch từ 2 lần trở lên là 31,3 ± 4,1 tháng, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh nhân chỉ tắc mạch 1 lần (16,9 ± 1,5 tháng) (p=0,002). Kết luận: Tắc mạch gan bằng hóa chất là một phương pháp điều trị ung thư gan có hiệu quả. Kết quả điều trị tốt hơn ở nhóm bệnh nhân có kích thước khối u nhỏ hơn 5cm. Việc tắc mạch bổ sung cũng mang lại hiệu quả điều trị cao hơn cho nhưng bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan.
To describe the clinical features and the result of transarterial chemoembolization (TACE) in primary hepato - cellular carcinoma at Thainguyen national hospital from August 2016 to August 2020. Subject and method: 58 patients who diagnosed with hepato-cellular carcinoma (HCC) were treated by TACE at Thainguyen national hospital from August 2016 to August 2020. Result: The average age of patients was 56.4 ± 11.9 years old. The location of tumors was mainly in the right lobe of liver, accounting for 82.8%. The average size of the tumors was 7.5 ± 3.2cm. The group of patients with tumor’s size from 5cm to 10cm accounted for 44.8%. After 1 month, 26.3% of patients still had right hypochondrium pain compared with 58.6% before embolization. The average size of the tumors before the embolization was 71.2 ± 27.5mm, and after 1 month, The average size was 67.9 ± 25.9mm. The mean overall survival (OS) was 20.8 ± 1.9 months (95% CI: 17.2 - 24.5). The OS after 6 months, 12 months, 24 months were 91.2%, 76.3%, 30.5% respectively. Patients with tumor’s size < 5cm had mean survival time of 26.1 ± 3.2 months, while the group of patients with tumors > 10cm had a shortest mean survival time (p<0.001). The mean survival time of the group of patients who had with 2 or more TACE times was 31.3 ± 4.1 months, which was statistically significantly higher than the group of patients with only one time of TACE (16.9 ± 1.5 months) (p=0.002). Conclusion: TACE was an effective treatment for HCC patients. The outcome was better in the group of patients with tumor’s size under 5 cm. Additional TACE also resulted in higher treatment efficacy for HCC patients.
- Đăng nhập để gửi ý kiến