Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá hiệu quả của dược chất phóng xạ Iode-131 sau phẫu thuật trong điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tốt có di căn hạch cổ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá hiệu quả của dược chất phóng xạ Iode-131 sau phẫu thuật trong điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tốt có di căn hạch cổ
Tác giả
Trần Ngọc Minh Nhật; Trần Văn Tri; Nguyễn Thị Thúy Hằng; Nguyễn Đăng Chung; Thủy Thanh Thiện
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
67
Trang bắt đầu
83-91
ISSN
1859-3895
Tóm tắt

Khảo sát các đặc điểm lâm sàng của các bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tốt có tình trạng di căn hạch cổ cũng như đáp ứng của những bệnh nhân này khi được điều trị với dược chất phóng xạ iode-131 sau khi đã được phẫu thuật loại bỏ hoàn toàn tuyến giáp (có/không có nạo vét hạch cổ) từ đó đánh giá hiệu quả của phác đồ điều trị hiện tại cũng như có được hướng xử trí phù hợp trên từng trường hợp bệnh nhân. Đối tượng và phương pháp Một nghiên cứu quan sát mô tả, hồi cứu trên 46 bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tốt có tình trạng di căn hạch cổ đã được điều trị với dược chất phóng xạ iode-131 sau phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp đến khám tại khoa Y học hạt nhân Bệnh viện Trung ương Huế trong khoảng thời gian từ 3/2020 đến đầu 7/2020. Kết quả Tuổi của bệnh nhân dao động từ dưới 20 cho đến trên 70 tuổi, trong đó nhóm tuổi 20-55 chiếm tỉ lệ cao nhất (84,8%). Số lượng bệnh nhân nữ nhiều hơn số lượng bệnh nhân nam (Nam/Nữ 1/2,83). Ung thư tuyến giáp thể nhú chiếm phần lớn trong nhóm ung thư tuyến giáp thể biệt hóa tốt (95,7%). Có 57,8% trường hợp bệnh có tổng liều điều trị không quá 200mCi, chỉ ghi nhận 1 trường hợp có tổng liều điều trị trên 500mCi. Trong nhóm nghiên cứu có 63% bệnh nhân có đáp ứng tốt với điều trị (39,1% đáp ứng hoàn toàn).