Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu ứng dụng điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non bằng liệu pháp Sunfactant

Tóm tắt

Bệnh màng trong (HMD) là một bệnh lý suy hô hấp nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh non tháng, với tỷ lệ mắc cao, đặc biệt ở trẻ sinh trước 30 tuần thai. Nhờ các biện pháp phòng ngừa, tỷ lệ mắc bệnh đã giảm nhưng vẫn là nguyên nhân chính gây tử vong sơ sinh. Điều trị bằng liệu pháp Surfactant thay thế, được khởi xướng bởi Fujiwara (Nhật Bản, 1980), đã cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh. Các chế phẩm Surfactant hiện đại như Curosurf, Newfactant... đã được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi.

Tại Việt Nam, liệu pháp này đã triển khai ở nhiều bệnh viện lớn. Nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh (2014-2017) nhằm đánh giá hiệu quả điều trị bằng Curosurf liều thấp (100 mg/kg) cho trẻ non tháng. Kết quả cho thấy giảm tử vong, giảm thời gian thở máy, thở CPAP, giảm chi phí điều trị và cải thiện tình trạng lâm sàng. Trước đây, khi chưa có Surfactant, tỷ lệ tử vong trẻ sinh non tại đây rất cao (75,6%).

Cơ chế bệnh sinh liên quan đến thiếu hụt Surfactant, gây xẹp phế nang, tăng CO2, giảm O2 máu, làm tổn thương phổi. Nghiên cứu điều trị Surfactant bắt đầu từ năm 1903, với nhiều thử nghiệm chứng minh hiệu quả. Hiện nay, Surfactant đã trở thành phương pháp tiêu chuẩn, được FDA công nhận từ năm 1990. Nghiên cứu cũng hướng đến chuyển giao kỹ thuật điều trị Surfactant cho bệnh viện tuyến dưới để mở rộng ứng dụng và cứu sống nhiều trẻ sơ sinh hơn.

Nội dung nghiên cứu

PHẦN NỘI DUNG

I. Cơ sở lý luận

1. Cơ chế sinh bệnh học của bệnh màng trong

Bệnh màng trong là một bệnh lý rất hay gặp và cũng là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ đẻ non.
Nguyên nhân của BMT là do thiếu hụt Surfactant ở phổi. Chất này có bản chất là photpholipit và protein do phế bào type II bài tiết.
Cho đến nay sinh lý BMT được các tác giả thống nhất bao gồm 2 yếu tố đẻ non và thai ngạt trong tử cung 
- Vì tổ chức phổi chưa trưởng thành, độ thẩm thấu của các mao mạch phổi và màng phế nang tăng dễ gây phù ở các tổ chức kẽ và tại phế nang, làm một số tế bào máu, huyết tương nhất là fibrin thoát mạch tràn vào phế nang. Sau khi dịch rút đi theo hệ bạch mạch, fibrin và một số hồng cầu đọng lại trong lòng phế nang..
- Vì thai ngạt, các tế bào phế nang bị thiếu oxy, dinh dưỡng tế bào kém nên không sản xuất được hoặc sản xuất rất ít Surfactant là chất phủ trên bề mặt thành trong của các phế năng do đó không tạo được sức căng bề mặt làm các  phế nang bị xẹp, sau một thời gian phổi phải hoạt động gắng sức sẽ gây SHH. Hiện tượng xẹp phổi gây giảm thông khí phế nang làm tăng CO2 và giảm O2 máu, toan máu. Toan máu gây co mạch phổi làm giảm tưới máu phổi, từ đó gây tổn thương tế bào biểu mô phế nang và nội mô mao mạch. Sự tổn thương tế bào làm giảm tổng hợp photpholipide gây nên vòng xoắn bệnh lý. 
Tình trạng SHH còn làm tăng Shunt ở phổi, dẫn đến sự tồn tại và mở lại của ống động mạch, gây tăng áp lực động mạch phổi, tăng nguy cơ chảy máu phổi đặc biệt ở trẻ đẻ non có tuổi thai dưới 30 tuần.

2. Điều trị bệnh màng trong bằng liệu pháp Surfactant thay thế

Các thử nghiệm điều trị bệnh màng trong bằng liệu Surfactant
Bệnh màng màng trong được mô tả lần đầu tiên năm 1903 bởi nhà vật lý học người Đức Hochheim. Năm 1947 Gruenwand một nhà bệnh lý học người Mỹ, dựa trên những nhận xét về thể tích phổi và quan sát hình ảnh giải phẩu bệnh của tổ chức phổi của bệnh nhân tử vong do bệnh màng trong đã đưa ra vấn đề xẹp phổi là vấn đề quan trọng của bệnh màng trong, và ông đã mặc nhiên công nhận việc bổ sung hoạt chất bề mặt có thể làm giảm tình trạng suy hô hấp. Sau đó đến năm 1959 Donald và những nhà lâm sàng học khác đề xuất tên của bệnh là bệnh màng trong.

Cũng trong năm này Avery và Mead đã chỉ ra bệnh sinh của bệnh là do giảm sức căng bề mặt phế nang và thiếu Surfactant trong lòng phế nang. Năm 1967 Gluck đã đưa ra cách đánh giá sự trưởng thành Surfactant phổi là dựa vào tỷ lệ Leccithine/Sphingomyeline trong dịch ối. Năm 1968 Liggins đã đưa ra thuyết sử dụng Corticoid trước sinh cho mẹ để dự phòng bệnh màng trong. Năm 1971 dựa vào cách đánh giá Surfactant của Gluck người ta đưa ra chuẩn đoán sớm bệnh màng trong ở những đứa trẻ mẹ sinh ra do đẻ non thông qua nước ối.  Năm 1971 Gregory sử dụng áp lực dương trong đường thở (CPAP) để điều trị bệnh màng trong. Năm 1972 Liggins và Howie đã đưa ra cách sử dụng Corticoid cho những bà mẹ dọa đẻ non để dự phòng bệnh màng trong. Năm 1972 Enhoming và Robertson điều trị bệnh màng trong trên thỏ bằng cách nhỏ Surfactant vào phổi trẻ đẻ non. Năm 1980 Fujiwara người Nhật Bản đã sử dụng Surfactant ngoại sinh để điều trị bệnh màng trong cho người. Nhóm nghiên cứu đã chiết suất Surfactant  từ phổi bò để bổ sung cho 10 trẻ sơ sinh bị bệnh màng trong qua nội khí quản, và đã cho thấy những kết quả ý nghĩa: Surfactant cải thiện nhu cầu oxy và thở máy ở những bệnh nhân này. Tai Mỹ, rất nhiều thử nghiệm lâm sàng lớn sử dụng các chế phẩm Surfactant khác nhau như Corbet và cộng sử 1991, Hoeks và cộng sự 1991 đã chứng minh Surfactant có tác dụng trong việc làm giảm mức độ nặng, giảm tỷ lệ tử vong cũng như các biến chứng của bệnh màng trong. Tại châu Âu, nhiều thử nghiệm Curosurf  và các chế phẩm Surfactant khác cũng đã cho những đánh giá tốt về hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, việc xử trí hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược nhau. Điều trị bằng Surfactant thay thế có vai trò quyết định, mặc dù vậy cách chuẩn bị tốt nhất, liều lượng lý tưởng và thời điểm sử dụng không phải lúc nào cũng rõ ràng. Năm 2007, một hội đồng khoa học gồm nhiều chuyên gia sơ sinh học Châu Âu đã đưa ra những khuyến cáo cho một phác đồ thống nhất sau khi xem xét kỹ những chứng cứ. Nghiên cứu Surfactant phòng ngừa cho trẻ sơ sinh non tháng dưới 31 tuần tuổi thai làm giảm được tử vong [RR: 0,61; 95% CI: 0,48 – 0,77; NNT: 20], giảm tràn khí màng phổi [RR: 0,62; 95% CI: 0,42 – 0,89; NNT: 50] so với điều trị cấp cứu muộn hơn, nhưng có thể phải khiến một số đứa trẻ phải đặt nội khí quản và nhận liều điều trị không cần thiết. Vì vậy, năm 2007 theo khuyến cáo hướng dẫn đồng thuận của Châu Âu về xử trí hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh thì tuổi thai cần điều trị phòng ngừa là nhỏ hơn 27 tuần. Tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Trong thời gian 1999 đến 2005 có một nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hiếu thử nghiệm lâm sàng để đánh giá hiệu quả của liệu pháp thay thế Surfactant trong dự phòng và điều trị bệnh màng trong. Thử nghiệm này được thực hiện trên trẻ sơ sinh có tuổi thai từ 27 – 33 tuần, trong đó có 45 trẻ điều trị dự phòng và 38 trẻ thuộc nhóm điều trị cấp cứu. Thử nghiệm này đưa ra kết luận Surfactant thay thế làm giảm tỷ lệ tử vong và biến chứng của bệnh màng trong ở trẻ đẻ non, nhất là khi được điều trị dự phòng. Từ đó tới nay có nhiều nghiên cưu thử nghiệm về Surfactant trên cả nước như tác giả Khu Thị Khánh Dung, Hoàng Thị Thanh Mai nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2006 cũng cho kết quả tương tự khi sử dụng liệu pháp Surfactant thay thế điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh non tháng với hai nhóm điều trị sớm ≤ 6 giờ tuổi và nhóm điều trị > 6 giờ tuổi.  Nghiên cứu của Nguyễn Thị Từ Anh ở Bệnh viện Từ Dũ năm 2014 cũng cho kết quả tương tự.

Từ những nghiên cứu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh non tháng bằng liệu pháp Surfactant thay thế với chế phẩm Curosurf  liều thấp 100 mg/kg cho 1 lần điều trị bơm qua nội khí quản cho hai nhóm bệnh nhân điều trị sớm ≤ 6 giờ tuổi và nhóm điều trị muộn > 6 giờ tuổi để so sánh trên các khía cạnh: tỷ lệ sống; tử vong; thời gian điều trị; thời gian thở máy trung bình; chi phí điều trị; biến chứng; khă năng phục hồi phế nang qua 2 chỉ số nhu cầu FIO2 và MAP.

II. Thực trạng của vấn đề

Trên thế giới điều trị liệu pháp Surfactant thay thế ở trẻ đẻ non đã được  áp dụng rộng rãi với nhiều loại chế phẩm có nguồn gốc khác nhau với liều từ 100 – 200 mg/kg cho mỗi lần điều trị và có thể điều trị tối đa lên tới 4 lần cho 1 bệnh nhân tùy vào diễn biến lâm sàng khi điều trị. Tại Mỹ, điều trị Surfactant thay thế đã được công nhận trên lâm sàng từ năm 1990. Tại Châu Âu năm 2007 đã thông qua đồng thuận về xử trí hộ chứng suy hô hấp trẻ sơ sinh trong đó có khuyến cáo có chứng cớ về điều trị và dự phòng Surfactant ở trẻ đẻ non bị bệnh màng trong.
Tại Việt Nam, liệu pháp Surfactant thay thế đã được ứng dụng, điều trị thành công ở các Bệnh viện : Nhi Trung Ương ; Nhi Đồng I, Từ Dũ, Phụ Sản Trung Ương ; Bệnh viện sản Nhi, khoa sơ sinh, đơn nguyên sơ sinh, khoa Nhi các bệnh viện tuyến Tỉnh. Tuy nhiên do giá thành của các chế phẩm của Surfactant còn cao nên việc sử dụng Surfactant với liều bao nhiêu, thời điểm nào là ưu việt thì vẫn còn chưa thống nhất. vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu điều trị bệnh màng trong ở trẻ sơ sinh non tháng bằng liệu pháp Surfactant thay thế với chế phẩm Curosurf  liều thấp 100 mg/kg cho 1 lần điều trị bơm qua nội khí quản cho hai nhóm bệnh nhân điều trị sớm ≤ 6 giờ tuổi và nhóm điều trị muộn > 6 giờ tuổi để so sánh trên các khía cạnh: tỷ lệ sống; tử vong; thời gian điều trị; thời gian thở máy trung bình; chi phí điều trị; biến chứng; khă năng phục hồi phế nang qua 2 chỉ số nhu cầu FIO2 và MAP.

Thuận lợi :
+ Nghiên cứu liều thấp Curosurf  100 mg/kg cho 1 lần bơm qua nội khí quản đã được chấp nhận trên thế giới và Bộ Y tế.
+ Quy trình điều trị bệnh màng trong đẻ non Curosurf 100 ml/kg cho 1 lần bơm qua nội khí quản đã được thông qua hội đồng khoa học bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh.
+ Được người đại diện hợp pháp của bệnh nhân đồng ý chấp nhận điều trị.

Khó khăn :
+ Bệnh nhân đến được trong giờ vàng điều trị còn thấp, chỉ khoảng 30%.
+ Khả năng tuyên truyền, giáo dục sức khỏe còn kém.
+ Nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế.
+ Chi phí giá thành của thuốc còn cao.

III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề

1. Phương pháp nghiên cứu

- Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu, mô tả, có so sánh trước sau
- Công thức tính cỡ mẫu: chọn mẫu thuận tiện.

2. Qui trình nghiên cứu

- Thu thập thông tin hành chính
- Bệnh nhân đẻ non có bệnh màng trong theo tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng và XQ phổi bệnh màng trong độ II đến IV.
- Chia thành 2 nhóm: điều trị sớm ≤ 6 giờ và điều trị muộn > 6 giờ .
- Đánh giá nhanh để loại trừ các bệnh lý khác.
- Kiểm tra đường mao mạch.
- Cho bệnh nhân thở oxy qua gọng mũi hoặc thở CPAP hoặc đặt nội khí quản thở máy duy trì SpO2 khoảng  85% - 92%.
- Xét nghiệm: công thức máu, sinh hóa máu, cấy máu
- Nhanh chụp XQ lồng ngực thẳng cấp cứu.
- Đánh giá của bác sỹ về lâm sàng.
- Thảo luận các nguy cơ/lợi ích với người đại diện hợp pháp, ký cam giấy cam đoan.
- Xem xét các tiêu chuẩn chỉ định và loại trừ.
- Cân bệnh nhân và tính liều dùng.
- Xem xét kết quả chụp XQ để xác định bệnh màng trong độ mấy.

3. Liều dùng Curosurf

- Mỹ và Châu Âu: liều dùng 100 – 200 mg/kg; có thể dùng tối đa 4 lần mỗi lần cách nhau 6 giờ tùy tình trạng đáp ứng của bệnh nhân trên lâm sàng.
- Chúng tôi dùng liều thấp 100 ml/kg cho 1 lần bơm qua nội khí quản.

4. Theo dõi sau điều trị Surfactant

- Đánh giá triệu chứng lâm sàng mạch, SPO¬2 cứ mỗi 15 phút/lần để điều chỉnh FIO2, điều chỉnh PIP; PEEP trong vòng 6 giờ đầu sau bơm và cứ 3 giờ 1 lần cho những giờ tiếp theo.
- Nếu sau 6 giờ điều trị liều 1, bệnh nhân vẫn còn phải thở máy, nhu cầu oxy > 40% mới duy trì SpO2 85- 92%, phim XQ phổi chưa cải thiện, cân nhắc dùng liều điều trị tiếp theo.

5. Biến chứng sau bơm Surfactant

- Trào ngược thuốc gây tắc nội khí quản, nhịp tim chậm, giảm bảo hòa oxy.
- Tràn khí màng phổi, tràn khí trung thất.
- Xuất huyết phổi.
- Loạn sản phế quản phổi.
- Còn ống động mạch.
- Xuất huyết não – màng não.
- Viêm ruột hoại tử.

6. Xử trí biến chứng

6.1. Trào ngược thuốc gây tắc nội khí quản, nhịp tim chậm, giảm bảo hòa oxy

• Dừng bơm Surfactant, tiến hành cấp cứu ngay theo phác đồ.
• Khi bệnh nhân ỗn định tiến hành bơm lại thuốc điều trị

6.2. Tràn khí màng phổi

• Giảm áp PIP thấp nhất có thể và phải hội chẩn ngoại để dẫn lưu, hút khí liên tục nếu có chỉ định.

7. Yếu tố tiên lượng thành công

• Thời gian điều trị thuốc càng sớm càng tốt (tốt nhất ≤ 6 giờ).
• Tuổi thai ≥ 30 tuần.
• Cân nặng lúc sinh ≥ 1.000 gr.
• Xq bệnh màng trong giai đoạn II-III.
• Mẹ được sử dụng Corticoid trước sinh để dự phòng bệnh màng trong.

8. Các phương pháp để khắc phục khó khăn trong việc tiếp cận điều trị sớm bệnh màng trong:

- Tăng cường giáo dục truyền thông về sức khỏe qua các phương tiện thông tin đại chúng: sách, báo chí, truyền hình,
- Phối hợp giữa các bệnh viện, khoa Sản. Đào tạo, hướng dẫn quy trình điều xử trí hội chứng suy hô hấp trẻ sơ sinh.
- Thành lập Viện Sản Nhi và sự phối hợp nhịp nhàng giữa khoa Sản - Nhi, từ đó rút ngắn thời gian việc được tiếp cận liệu pháp Surfactant sớm.
- Thành lập được đơn nguyên sơ sinh tại các Bệnh viện tuyến Huyện – Thị.

IV. Hiệu quả mang lại của sáng kiến:

Bệnh là một trong những nguyên nhân gây suy hô hấp nặng ở trẻ sơ sinh, là một trong những nguyên nhân hàng đầu  gây tử vong ở trẻ sơ sinh trước đây. Hiện nay do sự tiến bộ của y học, áp dụng sử dụng thở NCPAP, thở máy, Surfactant, sử dụng Betamethason trước sinh …nên rất nhiều trẻ mắc bệnh màng trong được cứu sống. Trước đây, tại khoa nhi bệnh viện  đa khoa tỉnh Hà Tĩnh những bệnh nhi đẻ non; đặc biệt dưới 32 tuần khi chưa có liệu pháp bơm surfactan, có tỷ lệ tử vong rất cao ước tính lên tới 75,6%. Những năm gần đây, chúng tôi đã sử dụng Surfactant, thở NCAP, thở máy trong điều trị đã cứu sống được nhiều bệnh nhân bệnh màng trong nặng. Qua 90 bệnh nhân đẻ non bị bệnh màng trong nặng được điều trị bằng liệu pháp Surfactant với chế phẩm Curosurf liều thấp 100 mg/kg cho 1 lần bơm qua nội khí quản tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh tháng 3 năm 2014 đến tháng 3 năm 2017 chúng tôi thu được kết quả tỷ lệ khỏi bệnh ra viện chiếm 51,11%. Tỷ lệ tử vong  trong BMT là 33,32%. Giảm được chi phí điều trị; thời gian nằm viện; thời gian thở máy, thở CPAP, thở oxy trung bình; giảm nhu cầu FIO2; giảm MAP, giảm biến chứng cụ thể như sau:

1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu

1.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu

Bảng 1.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu

Nhận xét: 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ nam/nữ: 2/1.

1.2. Đặc điểm về cân nặng và tỷ lệ tử vong theo nhóm cân nặng

Bảng 1.2. Nhóm cân nặng và tỷ lệ tử vong theo nhóm

Nhận xét: 
Số trẻ có cân nặng 1000-1500g gặp nhiều nhất chiếm 56,66%.
Trẻ tỷ lệ tử vong chủ yếu gặp ở nhóm có cân nặng < 1000g chiếm 71,43% với p < 0,05.

1.3. Đặc điểm tuổi thai

Bảng 1.3. Tuổi thai và tử vong theo nhóm tuổi

Nhận xét:
Số trẻ đẻ 28- 32 tuần chiếm tỷ lệ cao nhất 61,11%.
Trẻ tử vong chủ yếu có tuổi thai < 28 tuần chiếm 75%

2. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng bệnh màng trong

2.1. Lâm sàng

2.1.1. Các triệu chứng lâm sàng

Bảng 2.1. Các triệu chứng lâm sàng khi vào khoa

Nhận xét:
Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất của trẻ đẻ non có bệnh màng trong khi nhập viện là biến đổi màu sắc da chiếm 100 %. Tiếp đến là phồng phồng cánh mũi chiếm 66,67%.

2.1.2. Tình trạng suy hô hấp lúc nhập viện

Bảng 2.2. Tình trạng SHH 

Nhận xét: 
Tất cả BN đều có SHH, trong đó SHH nặng chiếm 51,1%.

2.1.3. Tình trạng suy hô hấp theo nhóm cân nặng lúc vào khoa

Bảng 2.3. Bảng điểm Silverman theo nhóm cân nặng

Nhận xét:
Nhóm cân nặng < 1000 g có điểm Silverman > 5 điểm là 57,8%. Trong khi đó nhóm có cân nặng ≥ 1500 g có điểm Silverman > 5 điểm chỉ chiếm 4,4%.

2.2. Hình ảnh Xquang phổi

2.2.1. Phân loại bệnh màng trong theo X quang phổi lúc nhập viện

Biểu đồ 3.1. Mức độ BMT

Nhận xét: 
Trong nhóm 90 bệnh nhi nghiên cứu mức độ bệnh màng trong trên X quang phổi từ độ II đến độ IV với tỷ lệ tương đương nhau.

3. Kết quả điều trị ban đầu sau bơm surfactant.

3.1. FIO2 trước và sau khi bơm surfactant

Bảng 3.1. FIO2 trước và sau bơm surfactant sau bơm 12 giờ

Nhận xét:
Sau điều trị nhu cầu FIO2  giảm rõ rệt ở hai nhóm điều trị sớm và điều trị muộn với p < 0,05.

3.2. MAP trung bình trước và sau bơm surfactant

Bảng 3.2. MAP trung bình trước và sau bơm surfactant sau bơm 12 giờ

Nhận xét:
MAP ở thời điểm sau điều trị đều nhỏ hơn thời điểm trước điều trị với p < 0,05.

3.3. Sử dụng kháng sinh và vận mạch

Bảng 3.3. Tỷ lệ sử dụng kháng sinh và vận mạch

Nhận xét: 
Số trẻ sử dụng ≥2 loại kháng sinh là 62,22%, sử dụng 1 loại kháng sinh 37,78%. Có 11,11 trẻ được sử dụng vận mạch trong quá trình điều trị

3.4. Thời gian trung bình thở máy, thở CPAP, thở oxy

Bảng 3.4. Thời gian trung bình thở máy, thở CPAP,thở oxy

Nhận xét: 
Thời gian thở máy trung bình, thời gian thở CPAP, thở oxy trung bình ở nhóm điều trị sớm ngắn hơn so với nhóm điều trị muộn với p < 0,05

3.5. Thời gian điều trị trung bình và chi phí điều trị trung bình

Bảng 3.5. Thời gian điều trị trung bình và chi phí điều trị trung bình

Nhận xét:
Thời gian điều trị trung bình và chi phí điều trị trung bình của nhóm điều trị sớm ngắn hơn so với nhóm điều trị muộn với p < 0,05.


3.6. Hiệu quả điều trị

Bảng 3.6. Kết quả điều trị

Nhận xét: 
Số bệnh nhân khỏi bệnh ra viện là 51,11%, tỷ lệ trẻ nặng, tử vong là 33,32%

3.7. Nguyên nhân chính chuyển viện; tử vong

Bảng 3.7. Nguyên nhân chuyển viện; tử vong

Nhận xét:
Nguyên nhân tử vong và nguyên nhân chuyển viện chủ yếu là do suy hô hấp nặng chiếm 50%.

3.8. Các biến chứng    

Bảng 3.8. Các biến chứng

Nhận xét: 
Tỷ lệ trẻ có biến chứng viêm ruột là biến chứng gặp nhiều nhất chiếm 35,56%; rồi đến xuất huyết phổi là 16,67%; tràn khí màng phổi; loạn sản phế quản phổi 3,33%, xuất huyết não và nhiễm khuẩn huyết lần lượt là 3,33% và 4,44%.

V. Những kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện, áp dụng sáng kiến

- Chẩn đoán đúng bệnh nhân, tiêu chuẩn về thời gian là quan trọng nhất.
- Chụp XQ lồng ngực thẳng  sớm và đọc kết quả sớm. Phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa (Nhi, chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm).
- Tuân thủ chặt chẽ quy trình, phác đồ điều trị liệu pháp Surfactant thay thế ở trẻ đẻ non bị bệnh màng trong.
- Với những bệnh nhân có tuổi thai ≤ 27 tuần nên điều trị dự phòng Surfactant ngay sau đẻ.

VI. Khả năng ứng dụng và triển khai

- Phạm vi ứng dụng: xây dựng quy trình, phác đồ điều trị cho các bệnh viện tuyến dưới đủ điều kiện về nhân lực và cơ sở vật chất.
- Lĩnh vực sáng kiến: tại các khoa Nhi cho Bệnh viện trong toàn tỉnh
- Hướng phát triển của sáng kiến:
+ Đem đến liệu pháp điều trị Surfactant thay thế ở trẻ đẻ non bị bệnh màng trong toàn tỉnh.

VII. Ý nghĩa của sáng kiến

- Đối với phạm vi:
+ Đào tạo, tuyên truyền phương pháp điều trị mới, quy chuẩn về điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non, đem lại lợi ích cho bệnh nhân để hướng tới sự hài lòng của người bệnh.
- Lĩnh vực áp dụng: Y khoa
- Lợi ích mang lại của sáng kiến:
+ Đem đến sự nhìn nhận về hiệu quả điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non bằng liệu pháp Surfactant cho các nhân viên y tế trong Bệnh viện và toàn tỉnh.
+ Giảm tỷ lệ tử vong, biến chứng, di chứng, số ngày điều trị và chi phí điều trị cho trẻ đẻ non.

PHẦN KẾT LUẬN

I. Những bài học kinh nghiệm

- Đánh giá các dấu hiệu bệnh nhân suy hô hấp đẻ non bằng Xquang lồng ngực thẳng theo 4 độ của Bomsel.
- Điều trị liều chuẩn : Curosurf liều 100 mg/kg cho 1 lần đối với bệnh nhân bị bệnh màng trong có Xquang phổi bệnh màng độ I đến IV càng sớm càng tốt, tốt nhất ≤ 6 giờ tuổi sẽ làm tỷ lệ tử vong;chi phí điều trị; số ngày điều trị; số ngày thở máy, thở CPAP, thở oxy; giảm MAP chỉ số đánh giá độ đàn hồi phổi.
- Điều trị Curosurf dự phòng cho bệnh nhân có tuổi thai dưới 27 tuổi làm giảm tỷ lệ tử vong và giảm các biến chứng chày máu não, chảy máu phổi, suy hô hấp cấp tiến triễn.
- Cần phối hợp chặt chẽ với truyền thông nhằm tăng số lượng bệnh nhân được hưởng lợi bởi liệu pháp này, cũng như phối hợp chặt chẽ với các khoa phòng trong bệnh viện (khoa chẩn đoán hình ảnh, khoa xét nghiệm…).

II. Kiến nghị, đề xuất

Đẻ non nói chung và BMT nói riêng là bệnh có tỷ lệ tử vong cao, thời gian điều trị kéo dài, chi phí điều trị rất tốn kém và để lại nhiều hậu quả lâu dài vì vậy: 
- Để giảm thiểu những hậu quả lâu dài do đẻ non để lại cần quản lý tốt thai nghén của các bà mẹ có nguy cơ.
- Những trẻ đẻ non cần được chuyển đến cơ sở y tế có đầy đủ phương tiện để chăm sóc, điều trị và theo dõi
- Nên sử dụng surfactant cho trẻ sơ sinh  đẻ non bị bệnh màng trong có chỉ định.
- Kỹ thuật này nên sử dụng sớm trong những giờ đầu sau đẻ, vì vậy cần chuyển giao và áp dụng cho các bệnh viện tuyến huyện - thị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt
1.    Nguyễn Trọng Hiếu(2005) :” Liệu pháp Surfactant thay thế trong dự phòng và điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh thiếu tháng”. Thời sự Y Dược học bộ X số 3, tr 132- 134.
2.    Lê Tố Như, BSCKII, 2013, chỉ định bơm Surfactant, NICU- BV Nhi TW
3.    Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em (Nhà xuất bản y học 2015).    
4.    Khu Thị Khánh Dung, Hoàng Thị Thanh Mai (2006), Bước đầu đánh giá hiệu quả của surfactant điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung Ương.
5.    Trần Thị Bích Phượng, Trần Tôn Nữ Anh Ty (2012) Đánh giá hiệu quả điều trị surfactant trong điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại khoa hồi sức sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng Nai.
6.     Bài giảng nhi khoa tập 2, trường ĐH Y Hà Nội
7.     Hoàng Thị Thanh Mai (2006) , Bước đầu đánh giá hiệu quả của Surfactant điều trị bệnh màng trong ở trẻ đẻ non tại khoa sơ sinh.
8.     Phác đồ điều trị Nhi khoa bv Nhi TW 2015    
9.    Trần Thị Yến Linh, Lê Hòa Hảo và cs (2010), Hiệu quả công tác chăm sóc ở trẻ sơ sinh sử dụng surfactant tại phòng sơ sinh khoa Nhi – Bệnh viện Trung Ương Huế.
10.    Cam Thị Ngọc Phượng, Sử dụng surfactant cho trẻ sơ sinh bệnh màng trong hiệu quả và chi phí. Y học TP. Hồ Chí Minh tập 10 phụ bàn số 2 năm 2006.

Tiếng Anh
11.    Bengt Robertson, et al (1998) Principles of surfactant replacement. Biochimica et Biophysica Acta 1408: 346–361.
12.     CraigL. McDonald, et al (2004) An update on the use of surfactant in neonates. Current Paediatrics 14: 284 – 289.
13.    Mikko Hallman, et al (2001) Surfactant in respiratory disstress syndrome and lung injury. Comparative Biochemistry and
Physiology Part A 129:287 – 294.
14.     Blennow M. (2003): “The INSURE approach: Does nCPAP and urfactant work only for Vikings?”. Highlights of a satellite symposium at the 44th Annual Meeting of the European Society for Padietric Research, p.10-12.
15.     Chang W.C., Jong H.H. et al (2005): “ Comparison of Clinical Efficacy of Newfactant versus Surfacten for the treatment of Respiratory Disstress Syndrome in the newborn infants”. J Korean Med Sci, The Korean Academy of Medical Sciences, p. 591-597.
16.     Christian P.S. (1995): “Randomised clinical trial of two treatment regimens of natural surfactant preparations in neonatal respiratory distress syndrome”. Archives of disease in childhood 72, p. 8-13.
17.    Halliday H.L. (1993): “Surfactant state of the art and future evelopments”. Highlights of a satellite symposium at the 44th Annual Meeting of the European Society for Padiatric Research, p.17-18 
18.    John A Smith, MD.2003. Surfactant Replacement Therapy in neonates. Neonatologist, Children and Woment 's health, centre of Bristish Columbia
19.    Karen E.Corrf et al, 2006, Practical considerations in the selection and use of pulmonary surfactant therapy, JPPT.
20.    Firas Saker et al. Prevention and treatment of respiratory distress syndrome in preterm infants. Up to date 2014