Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu ứng dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng để giảm đau chuyển dạ cho sản phụ sinh thường tại Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp gây tê ngoài màng cứng để giảm đau chuyển dạ cho sản phụ sinh thường tại Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi
Tác giả
Nguyễn Đình Tuyến; Nguyễn Tiến Dũng
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
189-193
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá hiệu quả giảm đau, các tác dụng không mong muốn và mức độ hài lòng của sản phụ khi lựa chọn phương pháp gây tê ngoài màng cứng trong chuyển dạ sinh thường bằng phối hợp thuốc Bupivacain và Fentanyl. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả chọn sản phụ từ 18-40 tuổi, có chỉ định sinh thường, thuộc nhóm ASA I, II, đồng ý tham gia nghiên cứu và không có chống chỉ định gây tê ngoài màng cứng từ tháng 01 đến tháng 10 năm 2020 tại Bệnh viện Sản-Nhi tỉnh Quảng Ngãi. Kết quả 326 sản phụ, chiều cao trung bình là 159,07 ±7,71cm và cân nặng trung bình là 60,04 ± 7,59 kg. Hiệu quả giảm đau trong chuyển dạ Thời gian khởi tê trung bình là 5,77±1,35 phút. Thay đổi điểm VAS trước khi gây tê điểm VAS trung bình của sản phụ là 7,15±1,28, tương ứng mức độ đau nhiều và rất nhiều; sau 5 phút gây tê và trong các giai đoạn còn lại của cuộc chuyển dạ, điểm VAS trung bình đều <4. Tác dụng không mong muốn Phương pháp chưa ghi nhận ảnh hưởng đến tim thai trong chuyển dạ; không ảnh hưởng đến tần số tim cũng như thay đổi SpO2, huyết áp của sản phụ. Ghi nhận một số tác dụng không mong muốn nhưng không ảnh hưởng đến tổng trạng sản phụ trong cuộc đẻ như lạnh run, tụt huyết áp, nôn, bí tiểu, ngứa, đau đầu. Tỷ lệ sản phụ rất hài lòng là 30,68%. Kết luận Phương pháp duy trì giảm đau trong các giai đoạn của quá trình chuyển dạ đều rất tốt, thể hiện trước khi gây tê điểm VAS trung bình đều >7, sau khi khởi tê điểm VAS trung bình ở các giai đoạn của chuyển dạ đều <4. Phương pháp chưa ghi nhận ảnh hưởng tới hô hấp của sản phụ và tần số tim thai. Tỷ lệ tác dụng không mong muốn ít. Tỷ lệ sản phụ hài lòng cao.

Abstract

To evaluate the effectiveness of pain relief, adverse effects and maternal satisfaction with epidural analgesia during labor. Methods This was a cross-sectional study on pregnant women reporting from January to October 2020 at Quang Ngai Hospital for Women and Children. The woman aged 18-40 years, classified as American Society of Anesthesiologists score I and II who requested epidural analgesia in active labor were taken for this study. Women with any contraindications to epidural techniques were excluded. Results Out of 326 pregnant women, the figure for mean weight and height was 60,04±7,59 kg and 159,07±7,71 cm respectively. The efficacy of analgesia the mean time of onset of analgesia was 5,77±1,35 minutes. Visual analog scale Before epidural injection, VAS score was 7,15±1,28. After 5 minutes of epidural anesthesia and in subsequent evaluation periods, the VAS score decreased to under 4. Maternal adverse effects We found no significant alterations with regard to maternal SpO2 values, pulse, blood pressure and fetal heart rate. There were several clinical adverse effects such as hypotension, headache, shivering, nausea and vomiting, urinary retention. 30,68% of patients reported it as a very good experience and satisfied with the procedure. Conclusion Epidural anesthesia is an efficient way of pain relief during labor and delivery Before epidural injection, VAS score was more than 7. In subsequent evaluation periods, the VAS score was under 4. There were no significant alterations in terms of fetal heart rate and respiratory rate of the pregnants. Adverse effects and complications were not noted.