Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả của hoạt động dược lâm sàng trong dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân nặng tại Trung tâm Cấp cứu A9 - Bệnh viện Bạch Mai

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả của hoạt động dược lâm sàng trong dự phòng thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch trên bệnh nhân nặng tại Trung tâm Cấp cứu A9 - Bệnh viện Bạch Mai
Tác giả
Bùi Thị Ngọc Thực; Vũ Đình Hòa; Nguyễn Hữu Quân; Đào Ngọc Mỹ Hạnh; Nguyễn Thu Minh; Nguyễn Quỳnh Hoa; Nguyễn Hoàng Anh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
19-24
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích kết quả can thiệp Dược lâm sàng trong dự phòng TTHKTM ở bệnh nhân nặng tại Trung tâm Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai. Phương pháp: nghiên cứu can thiệp thông qua hoạt động Dược lâm sàng trên các bệnh nhân nhập Trung tâm Cấp cứu A9. Kết quả: 132 bệnh nhân ở giai đoạn trước can thiệp và 178 bệnh nhân ở giai đoạn sau can thiệp được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ bệnh nhân được dự phòng dược lý khi có đầy đủ tiêu chuẩn dự phòng tăng từ 48,7% (trước can thiệp) lên 93% ở giai đoạn sau can thiệp (p<0,01). Với các bệnh nhân được dự phòng, tỷ lệ được hiệu chỉnh liều thuốc chống đông theo chức năng thận và cân nặng tăng từ 76% lên 90,8% (p<0,01). Không có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về thời điểm bắt đầu dự phòng và tỷ lệ bệnh nhân được dự phòng thuốc chống đông đầy đủ theo hướng dẫn. Kết luận: Hoạt động Dược lâm sàng có tác động tích cực thúc đẩy việc dự phòng TTHKTM hợp lý trên bệnh nhân nặng tại TT Cấp cứu A9. Mô hình này nên cân nhắc được mở rộng áp dụng cho các đối tượng bệnh nhân khác và tại các đơn vị lâm sàng khác trong bệnh viện.

Abstract

This study is performed to investigate the effects of clinical pharmacist intervention in venous thromboembolism prophylaxis in critical patients at the Emergency Department, Bach Mai Hospital. Study method: An interventional study about clinical pharmacy activities on hospitalized patients at the Emergency Department. Results: 132 patients before intervention and 178 patients after intervention were included in the study. The rate of patients receiving pharmacological prophylaxis when they met the appropriate criteria increased from 48.7% before intervention to 93% after intervention (p<0.01). The proportion of patients receiving prophylaxis who had dosing adjustments based on renal function and weight increased from 76% to 90.8% (p<0.01). No significant changes in the initiation time of thrombolytic prophylaxis or the rate at which patients got full lengths of prevention according to guidelines were found. Conclusions: Clinical pharmacy activities had positive impacts on promoting rational venous thrombosis prophylaxis in critical patients at the Emergency Department. This model should be considered to apply to more subjects and to other clinical units in the hospital.