
Xác định tỷ lệ nhóm nguy cơ cao TSG theo thuật toán FMF của các thai phụ tuổi thai 11 - 13+6 tuần đến khám thai, đánh giá kết quả chẩn đoán và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.087 thai phụ tại thời điểm thai 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày đến khám sàng lọc quý I và theo dõi thai nghén tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. Kết quả: Có 1087 sản phụ được tầm soát TSG trong quý I thai kỳ, trong đó có 567 trường hợp tầm soát phát hiện có nguy cơ cao TSG. Trong đó có 264 trường hợp có nguy cơ cao tiến triển thành TSG < 37 tuần (46,6%), 87 trường hợp có nguy cơ cao tiến triển thành TSG < 34 tuần (15,3%). Trong thời gian theo dõi có 43 trường hợp tiến triển th TSG (3,95%). Tiền sử mang thai bị TSG - SG, gia đình có người mang thai bị TSG - SG, tuổi mẹ ≥ 35 tuổi và các bệnh lý gồm tăng HA mạn tính, đái tháo đường, lupus ban đỏ hệ thống, bệnh thận mạn tính là các yếu tố nguy cơ TSG. Tỷ lệ bị TSG ở nhóm có HATB ≥ 95 mmHg cao hơn ở nhóm không bị TSG gấp khoảng 10 lần (OR 9,9, khoảng tin cậy 95% 4,8 - 20,2). Các giá trị UtA-PI tại thời điểm 11 - 13+6 tuần cao hơn ở nhóm thai kỳ xuất hiện TSG so với nhóm thai kỳ không bị TSG. Nguy cơ TSG cao gấp 7 lần (OR 6,6 khoảng tin cậy 95% 3,1 - 14,0). Tỷ lệ bị TSG ở nhóm có chỉ số PlGF ≤ 20 pg/ml cao hơn ở nhóm không bị TSG. Nguy cơ TSG cao gấp 7 lần (OR 7,1 khoảng tin cậy 95% 3,4 - 14,7). Kết luận: Tầm soát nguy cơ tiền sản giật thường quy bằng thuật toán FMF cho tất cả thai phụ đến khám ở tuổi thai 11 - 13 tuần 6 ngày, từ đó có kế hoạch quản lý và điều trị dự phòng bằng aspirine liều thấp mỗi ngày sau tam cá nguyệt thứ nhất.
To determine the prevalence of high-risk group for preeclampsia according to the FMF algorithm in pregnant women with gestational age from 11 to 13+6 weeks who came for antenatal care at Can Tho City Obstetrics Hospital, and evaluate the diagnostic results and related factors. Subjects and methods: Cross-sectional study of 1,087 pregnant women at gestational age from 11 to 13+6 weeks who came for first trimester screening and prenatal care at Can Tho City Obstetrics Hospital. Results: Among 1,087 pregnant women screened for preeclampsia in the first trimester, 567 cases were identified as high-risk for preeclampsia. Among them, 264 cases were at high risk for developing preeclampsia before 37 weeks (46.6%), 87 cases were at high risk for developing preeclampsia before 34 weeks (15.3%), and 43 cases progressed to preeclampsia (3.95%). History of previous preeclampsia, family history of preeclampsia, maternal age ≥ 35 years, and comorbidities such as chronic hypertension, diabetes mellitus, systemic lupus erythematosus, and chronic kidney disease were identified as risk factors for preeclampsia. The rate of preeclampsia was 10 times higher in the group with blood pressure ≥ 95 mmHg compared to the group without preeclampsia (OR 9.9, 95% CI 4.8 - 20.2). The UtA-PI values at 11 - 13+6 weeks were higher in the group with preeclampsia compared to the group without preeclampsia. The risk of preeclampsia was 7 times higher in the group with high UtA-PI (OR 6.6, 95% CI 3.1 - 14.0). The rate of preeclampsia was higher in the group with PlGF ≤ 20 pg/ml compared to the group without preeclampsia. The risk of preeclampsia was 7 times higher in the group with low PlGF (OR 7.1, 95% CI 3.4 - 14.7). Conclusion: Routine pre-eclampsia risk screening by FMF Bayes algorithm for all pregnancy who come to the clinic at 11 - 13 weeks and 6 days of gestation, from which a management plan and daily prophylaxis with low-dose aspirin beginning after the first trimester.
- Đăng nhập để gửi ý kiến